TLNX: Trước thềm Xuân Bính Thân, mời các bạn đọc một bài viết rất công phu và rất hay về Khỉ. Bài viết của Cao Huy Thuần, một thầy giáo uyên thâm kính quý.
-------------------------------------------
Viết về Darwin, dù là chỉ về cái mũi của ông,
khó lòng không nghĩ ngay đến khỉ. Vậy tôi xin bắt đầu bằng chuyện khỉ.
Khỉ
Chuyện xảy ra ngày 30-6-1860. Hôm đó,
"Hiệp hội phát triển khoa học" họp tại Đại học Oxford. Quyển sách của
Darwin "Nguồn cội của các chủng loại" xuất bản đã được nửa
năm, từ tháng 11 năm 1859, gây sóng gió trong giới khoa học cũng như trong dư
luận. Giám mục Samuel Wilberforce tuyên bố sẽ nhân buổi họp này "thanh
toán Darwin". Ngồi đối diện với ông trong phòng họp là Thomas Huxley, kỳ
phùng địch thủ của ông và bạn chí thân của Darwin, lính tiền đồn trên mặt trận
lý thuyết tiến hóa. Trước cử tọa đông cả ngàn người, giám mục xung kích: "Thưa
ông Huxley, tôi muốn hỏi ông: ông nghĩ rằng ông đến từ con khỉ, vậy là từ ông
nội ông hay là từ cha ông?"
Huxley đứng phắt dậy, lính tiền đồn như thường lệ: "Tôi nghĩ rằng chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo". Sinh viên vỗ tay như sấm (1).
Từ đó đến nay, chuyện khỉ vẫn không tiến hóa, chiến trận đả đảo Darwin vẫn diễn ra, nhất là với giới Nhà Thờ ở Mỹ. Giống như mọi chiến tranh, bạn và thù phải phân minh tách bạch, ai nhận mình là khỉ thì qua bên kia, ai nhận mình là con cháu Adam thì qua bên này, hoặc là Darwin, hoặc là Thánh kinh. Lý thuyết "chọn lọc tự nhiên" tế nhị là thế, bỗng được đơn giản hóa tối đa, chỉ trắng với đen, quần chúng chỉ được trả lời trên một câu hỏi: có ai thích ông nội của mình là cà khọt cà khẹt?
Kết quả là phe ta đại thắng: từ 60 đến 87% dân chúng Mỹ, tùy hãng phỏng vấn, từ khước Darwin (2). Tội nghiệp ông Darwin, chết vẫn không yên, chỉ vì dám quả quyết. Quả quyết hai chuyện động trời sau một chuyến thám hiểm không tiền định.
Hai quả
quyết
Tội nghiệp ông, cho đến khi bước chân lên tàu
Beagle để thám hiểm vùng biển Nam Mỹ, có bao giờ ông xa Thượng đế đâu?
Thuở chín mười tuổi, mỗi lần ham chơi suýt trễ học, ông vừa chạy vừa "thành
khẩn" cầu Thượng đế và lần nào Thượng đế cũng giúp ông; về già ông còn
nhớ ơn Thượng đế (3). Ông học không giỏi, định học y khoa, nhưng
nhát gan không dám nhìn mổ xẻ, suýt chọn nghề mục sư. Nghiêm túc, ông đọc nhiều
sách thần học, tin "từng chữ", dù "không thể hiểu" vì
"tối tăm ý nghĩa" (4) . Về già, ông dí dỏm: "Mỗi khi
tôi nhớ lại mình đã bị các nhà tôn giáo tấn công thô bạo thế nào, tôi không
khỏi nghĩ một cách khôi hài rằng trước đây mình đã có ý định trở thành mục
sư" (5). Sách gối đầu giường của ông trong chương trình năm
cuối đại học Cambridge là các sách thần học và triết học của William Paley mà
ông say mê uống từng chữ (6). Trong khi lênh đênh trên chiếc Beagle,
ông vẫn nghĩ Paley đã rèn luyện trí óc của ông. Paley dạy gì? Dạy rằng: Thượng đế
có ý định, và vấn đề là phải tìm cho ra bằng chứng của ý định ấy nơi mọi sự mọi
vật trong Thiên Nhiên. Vì sao? Vì "không thể có ý định mà không có
người tạo ra ý định ấy; không thể có sự phát minh mà không có người phát minh;
không thể có trật tự mà không có lựa chọn; không thể có sắp đặt mà không có
người có khả năng sắp đặt; không thể có sự nương nhờ và hướng theo mục đích mà
không có người vạch ra mục đích; không thể có những phương tiện thích hợp cho
một cứu cánh hoặc đã được sửa đổi để thích nghi với cứu cánh mà không có cứu
cánh đã định trước. Sửa đổi, sắp đặt thành phần, tìm những phương tiện sao cho
ứng dụng với cứu cánh, những dụng cụ sao cho thích hợp với thực hành, tất cả
bao hàm sự có mặt của một năng khiếu thông minh và một trí óc" (7).
Luận lý ấy là nòng cốt của "thần học tự nhiên", là nước giếng mà Darwin đã uống như ông đã uống nước giếng toán học của Euclide. Trong Thiên Nhiên, cũng như trong cơ thể của sinh vật, chẳng phải ở đâu cũng thấy dấu hiệu của Ý Định đó sao? Hãy nhìn Thiên Nhiên: trong trật tự mầu nhiệm cũng như trong cuồng nộ thoáng qua, sao chẳng thấy bàn tay sắp đặt cực kỳ thông minh ấy? Thượng đế sáng tạo theo một "dây chuyền sinh loại", từ sinh loại thấp nhất, thô nhất, đến sinh loại cao nhất là con người, và qua con người, mọi sự mọi vật đều móc xích với Thượng đế. Mọi sự mọi vật đều dính mắc với nhau, chuyển động trong trật tự hài hòa, không sai chậy, giống như cái đồng hồ chính xác, và Thượng đề là Ông Đồng Hồ toàn hảo.
Dù là Galilée, dù là Newton, các đại khoa học gia ở thế kỷ 16-18 đều phải nhận có Ông Đồng Hồ để trước là yên thân với chính mình, sau là yên thân với Nhà Thờ. Gần với Darwin hơn cả và trước ông, Lamarck (1744-1829) cũng đã thuyết giảng về tiến hóa của các sinh loại theo chiều "tiến bộ" như thế, đi dần từ thấp lên cao, càng ngày càng hoàn hảo hơn, dưới áp lực của một "sức mạnh" sáng tạo và cưỡng bách, để thích nghi với môi trường bên ngoài. Vì sự cưỡng bách đó, các cơ thể phải kinh qua kinh nghiệm của các "nhu cầu", và các "nhu cầu" này thay đổi theo với các "hoàn cảnh" ở bên ngoài. Từ các "nhu cầu" đó, sinh ra những "thói quen" mới, làm biến đổi những thủy lượng (fluide) đã tạo nên cơ thể. Từ đó, sinh ra những đặc tính mới có tính di truyền, truyền từ đời này qua đời sau, mỗi đời mỗi tích lũy thêm. Cho nên con hươu cao cổ trở thành con hươu có cái cổ cao vòi vọi: từ từ, dần dần, cái cổ cứ cao thêm để cái lưỡi nó vói tới lá cây trên cao trong những miền mà khí hậu dần dần bị hấp khô. Cái cổ của các chú - và nàng - hươu ấy phải rướn lên vì thèm ăn, vì đói, vì cố gắng, vì kiên nhẫn, vì… cứng đầu từ cố tổ cao tằng của dòng họ hươu trải qua bao thời đại. Lamarck đã viết như thế từ 1802 và Darwin đã đọc: "Từ thế kỷ này qua thế kỷ kia, trải qua một chuỗi dài thế kỷ, không thể tránh được việc có thể có các loại sinh vật mới xuất hiện…" Nói như thế, trong thời đại Lamarck, đã là bạo lắm rồi, nhưng nhà sinh vật học ấy vẫn chưa thoát khỏi ý nghĩ cổ điển về trật tự của thiên nhiên trong đó đã ngầm sẵn một ý nghĩa. Trật tự đó đi từ thấp lên cao, hoàn hảo, toàn bích, dưới bàn tay thông minh của một Đấng Sáng Tạo.
Vậy thì, khi chàng thanh niên Darwin 22 tuổi bước lên tàu Beagle, chàng là người tin đạo, trong đầu cũng như trong tim, trong trắng, thơ ngây. Chàng viết: "Trên chiếc Beagle, tôi là tín đồ chính thống; tôi còn nhớ đã làm các sĩ quan trên tàu cười phì khi tôi cứ trích dẫn Thánh kinh như bằng chứng không gì chối cãi được để biện minh cho một vấn đề luân lý nào đó" (8). Năm năm nghiên cứu sinh vật trên các ven biển, khoa học đã làm ông mở mắt. Ông mở mắt từ từ, "hoài nghi xâm chiếm tôi rất chậm nhưng cũng rất chắc. Tiến triển ấy chậm đến nỗi tôi không cảm thấy một chút áy náy gì, và từ đó đến nay chưa có một giây phút nào tôi nghi ngờ về tính xác thực của khám phá của tôi". Ông viết thêm về nguồn suối Paley: "Lý luận xưa cũ về một cứu cánh trong thiên nhiên, như Paley trình bày, mà ngày trước tôi thấy không gì xác thực hơn, bây giờ rơi vỡ tan tành xuống đất từ khi tôi khám phá ra luật chọn lọc tự nhiên. Giờ đây, ta không thể nói, chẳng hạn, rằng cái bản lề xinh đẹp khép mở nơi hai tấm vỏ sò phải là sáng tác của một đấng thông minh giống như cái bản lề khép mở nơi cánh cửa là sáng tác của người thợ mộc. Trong muôn loài sinh vật hữu cơ và trong tác động của chọn lọc tự nhiên, chẳng hề có một cứu cánh nào lớn hơn phương hướng của một làn gió thổi. Tất cả trong thiên nhiên đều là kết quả của những định luật bất biến" (9).
Những định luật gì? Chân lý khoa học mà Darwin khám phá rất đơn giản:
Hậu duệ thay đổi thế nào? Ở đây, Darwin đổi mới hoàn toàn so với những quan niệm có trước. Trước ông, người ta nghĩ rằng cả một giống sinh vật thay đổi. Ông khám phá ra điều khác: không phải cả giống thay đổi mà cá nhân trong mỗi giống thay đổi (điều 2 và 3 ở trên). Cá nhân thay đổi rồi truyền thừa thay đổi của mình cho đời sau, khiến các giống sinh vật được tạo ra rồi được biến đổi theo. Cá nhân nào thay đổi? Chỉ những cá nhân nào thích nghi giỏi với môi trường chung quanh. Đây là cái lõi của khám phá, mang tên là "chọn lọc tự nhiên", nghe chẳng có gì ghê gớm mà kỳ thật là kinh thiên động địa đối với thế giới thần học. "Chọn lọc" diễn ra bằng những thay đổi rất nhỏ, rất vi tế, trong cơ thể của các cá nhân; đến một lúc nào đó, một thay đổi nào đó mang lại cho một cơ thể nào đó một lợi thế khiến nó thắng các cá nhân khác trong cuộc đấu tranh tất nhiên phải xảy ra để giành nhau các phương tiện sống; thay đổi đó được truyền lại cho hậu duệ, hậu duệ này sinh sản phát triển lên với một hình thức khác với hình thức trước đó. Đâu là cách mạng mà Darwin mang lại?
Thứ nhất, Darwin quả quyết: thiên nhiên chẳng hàm chứa một ý định thiêng liêng của một đấng nào. Tiến hóa chẳng có một mục đích gì ráo. Các cá nhân tranh đấu để làm tăng lên sự hiện diện của gène trong hậu duệ, chỉ thế thôi, chấm hết (10).
Thứ hai, Darwin nói rõ: những "thay đổi vi tế" nhờ đó các cá nhân được chọn lọc để sinh tồn xảy ra do "tình cờ" - tình cờ với nghĩa là không có một chương trình nào đã được vạch sẵn trước. Cả hai quả quyết làm ngứa ngáy thần học.
Tiến hóa? Các nhà thần học và các nhà làm khoa học tin ở Thượng đế có thể chấp nhận được chừng nào họ còn biện minh được bằng giải thích: đó là ý muốn của Thượng đế. Họ nói: Thượng đế đã nắm trong tay các định luật cai trị vũ trụ, đã tạo và truyền sự sống, đã cho phép các loài sinh vật thay đổi với thời gian, và - ở một thời điểm thần bí nào đó - đã chích một mũi tâm linh vào sinh vật mà sau này được gọi là Homo Sapiens, thủy tổ của loài người. Với thuyết "chọn lọc tự nhiên" của Darwin, luận lý đó hết chỗ đứng. Không những "chọn lọc tự nhiên" đã thay thế ý định của Thượng đế, mà hậu quả của thuyết đó lại còn độc địa hơn: con người mất cái quy chế đặc biệt là được Thượng đế chọn và sinh ra theo hình dáng của Ngài.
Tình cờ? Ngẫu nhiên? Độc địa không kém. Darwin giải thích trong "Nguồn cội…": thay đổi trong cơ thể sinh vật xảy ra để đáp ứng với "những điều kiện của đời sống", khó khăn, nguy biến - khí hậu khe khắt, thực phẩm khan hiếm, nơi ở bất an… Nhưng ông nói thêm: những thay đổi xảy ra "bằng cách không định trước được" (11). Nghĩa là gì? Trong quyển "Nguồn cội…", ông dùng từ "may rủi" và giải thích: "Nói rằng "do may rủi" là một cách nói không đúng, là nói theo nghĩa thông thường, cốt chỉ "để thừa nhận rành rọt ta chẳng biết gì về nguyên nhân" của mỗi thay đổi. Cách nói đó không đúng vì những thay đổi quả là có những nguyên nhân vật chất; chúng không hề có một cứu cánh gì định trước. Chẳng hạn, một hạn hán có thể làm tăng tốc độ những thay đổi nơi một loài sinh vật mà không nhất thiết thúc đẩy những thay đổi đặc biệt nào để làm tốt hơn sức chịu đựng của một sinh vật đối với hạn hán. Hoặc là một hạn hán có thể làm sinh ra một thay đổi để chịu đựng hạn hán cộng thêm 5 thay đổi nữa nhưng vô dụng hoặc có hại. Nếu thế, chọn lọc tự nhiên có thể có khuynh hướng bảo tồn và nhân lên thay đổi đó. Chọn lọc tự nhiên là có phương hướng; thay đổi, cung cấp nguyên liệu cho quá trình chọn lọc thì không.
Không có phương hướng: "may rủi" là như vậy, là không có ý định gì cả. Trong một thư viết năm 1870 cho một bạn đồng nghiệp, J. D. Hooker, ông nói thêm: "Tôi không thể nhìn vũ trụ như là kết quả của một ngẫu nhiên mù lòa, tuy vậy tôi không thấy một bằng chứng gì về một cứu cánh tốt lành, ngay cả bất cứ một cứu cánh gì, trong những chi tiết" (12).
Với cả hai quả quyết đó, Darwin biết mình đã đi quá xa, không phải trên địa hạt khoa học, mà chính là trong trận địa triết lý: lý thuyết của ông sẽ bị kết án là duy vật chủ nghĩa. Chính thế, vũ trụ không phải là kết quả của một ý định mà của "những định luật ghi khắc trên vật chất", có thể khám phá được và không thay đổi. Luật của tiến hóa cũng giống như luật của trọng lực, của hơi nóng. Đó là những luật liên quan đến sự phát triển của sinh vật, sinh sản, di truyền, biến đổi, áp lực của dân số, cạnh tranh sinh tồn, tất cả phối hợp với nhau để phát sinh ra sự chọn lọc tự nhiên, đưa đến một kết quả mà Darwin cho là "hùng tráng", đúng thế, "hùng tráng", trong đó, "từ những hình thức đơn giản lúc khởi thủy, vô vàn những hình thức đẹp nhất, kỳ lạ nhất, đã sinh ra và đang sinh ra" (13).
Lý thuyết ấy đập vỡ tan tành hai ngàn năm triết lý và tôn giáo của phương Tây. Con người? Không có nguồn gốc gì khác các sinh vật khác. Cũng một nguồn gốc ấy thôi: tiến hóa, chọn lọc tự nhiên. Linh hồn có trước và bất diệt? Darwin diễu Platon: Platon nói rằng những "ý nghĩ tưởng tượng" là đến từ một linh hồn đã có sẵn trước, chứ không phải từ kinh nghiệm; đúng hơn phải nói rằng cái đã có sẵn trước là con khỉ".
Hãy thử tưởng tượng tâm trạng của Darwin lúc đó, sống với một lý thuyết đảo lộn như vậy trong đầu giữa thế kỷ 19 ở Âu châu, dưới thế lực của Nhà Thờ và của thần học đang ngự trị trên tư tưởng và dư luận. Darwin tin chắc ở điều mình khám phá, nhưng nói ra được chăng? Hay là nên sợ?
Sợ
Bao nhiêu nhà nghiên cứu về lịch sử khoa học
đã dành không biết bao nhiêu giấy mực để phân tích sự im lặng của Darwin trong
suốt 21 năm, từ khi ông vun quén những ý tưởng ấy trong đầu, năm 1838, cho đến
khi ông xuất bản tác phẩm "Nguồn cội…" năm 1859. Hai mươi mốt
năm! Ai cũng biết tại sao cuối cùng ông xuất bản sách ấy. Chỉ vì có một nhà
khoa học khác, Alfred Russell Wallace, tình cờ gửi đến ông một công trình
nghiên cứu mà kết luận giống như kết luận của ông. Bỗng có người khác xía vào
khám phá của mình, không công bố kết quả thì hóa ra mình là kẻ đến sau. Cho
nên, chẳng đặng đừng, ông phải chấm dứt im lặng.
Nhưng hãy thử tưởng tượng: ai có thể giữ một bí ẩn động trời trong lòng suốt 21 năm ròng rã như vậy? Mới đây, có nhà nghiên cứu biện hộ giùm ông rằng trong 21 năm ấy, ông còn phải cật lực tìm hiểu thêm, gom góp thêm sự kiện, khảo sát, thí nghiệm bao nhiêu sự việc khác nữa, còn phải viết, còn phải bổ túc xuất bản những công trình dang dở, nghĩa là còn phải tiếp tục suy nghĩ, cân nhắc, để đưa ra chính xác hơn lý thuyết của mình mà ông biết sẽ gây bão tố, ngay cả trong giới khoa học quen biết (14). Đúng thế. Nhưng khó nghĩ rằng đó là lý lẽ duy nhất. Một trong những lý lẽ không thể bỏ qua là ông sợ. Sợ gì nhất? Sợ kết luận mang tính duy vật. Sợ hệ quả triết lý của một khám phá khoa học.
Đừng nói sợ ai cho xa: ông sợ phật lòng bà vợ. Emma, vợ ông, là tín đồ trung kiên của Thiên chúa giáo. Hai vợ chồng rất tương kính nhau, nhưng ông khổ ngầm vì không tin được nữa như vợ, và bà khổ ngầm vì khoa học dẫn ông đi xa đức tin của bà. Bà thổ lộ trong thư: "Cái gì liên quan đến chàng đều liên quan đến thiếp, và thiếp sẽ rất khổ khi nghĩ rằng chúng ta không là của nhau nữa trong cõi vĩnh viễn" (15). Trong vĩnh viễn đời sau, bà sợ ông sẽ bị trừng phạt, nghĩa là sẽ xa bà trên chốn thiên đường. Mà không bị trừng phạt sao được khi ông dám viết thế này trong "Tự Truyện": "Sự thực, tôi không thể chấp nhận được rằng có người mong muốn Thiên chúa giáo là đúng, bởi vì nếu vậy, Kinh thánh nói rõ rằng người nào không tin, nghĩa là cha tôi, anh tôi, và hầu hết bạn bè thân nhất của tôi, đều phải bị trừng phạt vĩnh viễn. Điều đó quả thật là một học thuyết đáng kết án" (16).
Đáng bị trừng phạt hơn nữa khi Darwin tấn công vào chính cái mà ông gọi là "đồn lũy": trí óc của con người. Nếu trí óc con người không hiện hữu thực sự ngoài bộ não, Thượng đế là gì nếu không phải là hoang tưởng do hoang tưởng bày đặt ra? "Sự việc tư tưởng là do bộ não chiết ra, có gì lạ lùng đâu, có gì lạ lùng hơn sự việc trọng lực là một đặc tính của vật chất?" (17).
Nhiều nhà nghiên cứu đã áp dụng phân tâm học để tìm hiểu tâm lý của Darwin trong hơn hai mươi năm ròng im lặng. Phải chăng vì tâm lý bất ổn nên ông thường đau? Có lần ông nằm mơ bị treo cổ! Thức dậy, ông không thấy bị treo cổ nhưng lại thấy… treo giò. Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, trong giới khoa học, trong giới đại học, bao nhiêu giáo sư và nhà khoa học đã bị treo giò, đã bị mất chức, mất môn dạy, đã không được xuất bản, đã bị kiểm duyệt, vì có tư tưởng khác với thời đại. Darwin viết thầm trong Nhật Ký: "Để tránh khỏi phải nói rằng tôi đã trở thành duy vật đến thế, tôi phải nhẹ nhàng trong cách nói, chỉ nói rằng những cảm xúc, những bản năng, những mức độ tài năng, tất cả đều di truyền, bởi vì bộ não của đứa bé giống như bộ não của cha mẹ nó" (18). Ông viết trong thư gửi Karl Marx: Đừng tấn công trực tiếp Thiên chúa giáo làm gì, vô ích đối với quần chúng; "hãy làm giàu trí óc con người bằng tiến bộ của khoa học, chỉ nhờ thế tự do tư tưởng mới phát triển thêm. Và bởi vậy, tôi tránh nói đến tôn giáo, chỉ hạn chế vào khoa học" (19).
Thận trọng như thế cho nên ông chưa dám động đến con người trong "Nguồn cội …" khi sách xuất bản năm 1859. Ông còn chua thêm một câu ỡm ờ trong sách: "Ánh sáng sẽ rọi vào nguồn gốc của con người và của lịch sử nhân loại". Phải chờ thêm 12 năm nữa, cho đến 1871, khi không thể giấu mãi niềm tin chắc của mình, ông mới xuất bản tác phẩm "Thủy tổ của con người". Từ đó lại nổ ra thêm một tranh luận triết lý nữa, lần này trên vấn đề đạo đức: còn gì là "nhân cách" khi con người có thủy tổ là khỉ? Đây là luận cứ mà giới thần quyền ở Mỹ đập vào đầu dư luận từ nhiều năm nay để buộc chính quyền Mỹ đưa vào chương trình học thuyết sáng tạo nói theo Kinh thánh. Con khỉ! Nhục nhã thế! Ai muốn thủy tổ của mình là con bú dù? Chẳng lẽ Hằng Nga, Dương Quý Phi, Tây Thi là hậu duệ của các cụ đang bắt rận cho nhau?
Vấn đề không phải là muốn thế này hay thế kia. Lý luận kiểu đó chẳng có chút gì khoa học. Vả chăng, từ chối họ hàng với khỉ thì đâu có nhất thiết phải nhận mình là con thừa tự của một Đấng nào cao xa? Hãy nghe Darwin lý luận: một đứa bé sinh ra đã bị tật nguyền, điều đó là do Thượng đế muốn thế chăng, hay là do tác dụng của những luật phức tạp về di truyền, về bào thai, áp dụng vào một trường hợp cá thể? Vậy, nếu đứa bé đó chỉ là một cá thể lẻ loi giữa một dân số toàn cầu đông hàng tỷ người, tại sao không xem một loài sinh vật cũng như thế, cũng là một cá thể lẻ loi giữa muôn triệu sinh vật tiếp nối nhau sống trên trái đất, trải qua bao nhiêu thời kỳ địa chất? Tại sao loài Homo Sapiens lại phải được xem như là mục đích, như là một giá trị tiên thiên, trong khi con rắn, con rết có mặt trên trái đất lâu hơn thế, lại bị xem như là chẳng có gì để nói trong lịch sử vũ trụ? Cái gì, ngoài tính kiêu ngạo vô căn cứ của ta, cho phép ta vỗ ngực tự xưng là loài sinh vật được hưởng đặc ân trong hàng trăm triệu loài sinh vật được trái đất tiếp nhận trong lịch sử trường thiên của mình?
Trong một thư viết cho đồng nghiệp năm 1860, ông đặt câu hỏi: "Tôi thấy một con chim mà tôi muốn ăn thịt, tôi rút súng ra bắn, nó chết, tôi làm hành động đó có chủ đích. Một người kia, vô tội, đứng cạnh một gốc cây, bị sét đánh chết. Anh có tin chăng Thượng đế đã giết người đó có chủ đích? Nếu anh tin như thế, anh có tin thêm rằng, khi một con chim én hớp một con bọ, Thượng đế đã sắp đặt trước khiến con én ấy hớp con bọ kia đúng vào thời điểm đó? Về phần tôi, điều mà tôi tin là người ấy và con bọ kia đều ở trong cùng một hoàn cảnh. Nếu cái chết của người ấy và cái chết của con bọ kia đều không có định đoạt trước, tôi chẳng thấy lý do gì chính đáng để nghĩ rằng sự khai sinh hoặc sáng tạo đầu tiên của người kia và của con bọ ấy nhất thiết phải được định trước" (20).
Đừng gọi tên "khỉ" nữa mà cảm thấy nhục nhã; hãy gọi tên khoa học là Homo Sapiens: homo sapiens, nghĩ cho cùng thì cũng chỉ là một giống sinh vật đã tiến hóa giữa một Vũ Trụ bao la, không biết đâu là khởi thủy. Trước mắt khoa học, như thế là bình thường, có gì là thiếu đạo đức, có gì là mất nhân cách? Ngược lại, như thế mới hợp đạo đức, như thế mới là đạo đức đối với muôn loài mà con người cứ cho rằng Thượng đế đã sinh ra để phục vụ mình. Con thú cũng có đời sống tình cảm, mọi sự sống đều phải được tôn trọng ngang nhau: nếu con người mất nhân cách, chính là lúc hành hạ thú vật để tạo miếng ăn ngon cho mình.
Nhưng nếu không có Thượng đế, không có Ý Định gì trước trong tiến hóa của sinh vật, thì cái gì giải thích sự lựa chọn tự nhiên? Darwin trả lời: Tình cờ, Ngẫu nhiên.
Ngẫu
nhiên
Như đã nói ở trên, đây là kết luận xấc xược
thứ hai của ông với thế giới thần học. Trái với hình ảnh Ông Đồng Hồ, tích tắc,
tích tắc, tính toán chi ly, chính xác, từng giờ, từng khắc, Darwin đưa ra hình
ảnh của thiên nhiên như không hề biết toan tính, lo xa, tuy có đôi bàn tay cực
kỳ thiện xảo của một anh thợ nghiệp dư tài ba xuất chúng.
Ông lý luận: "Tuy rằng một cơ quan có thể, lúc khởi thủy, không được tạo ra vì một mục đích rõ rệt, nhưng nếu trong hiện tại nó thực hiện cái chức năng ấy, ta có thể nói một cách đúng đắn rằng nó đã được đặc biệt tạo ra để làm việc đó. Cũng vậy, nếu một người chế tạo ra một cái máy trong một mục đích rõ rệt, nhưng đã dùng lại những cái lò xo cũ, được sửa đổi đôi chút, để làm chuyển động những bánh xe và ròng rọc cũng cũ, ta phải nói về cái máy đó rằng, trong toàn bộ, với tất cả những bộ phận đã làm thành ra nó, nó đã được chế tạo đặc biệt trong mục đích đã vạch ra. Bởi vậy, trong toàn thể thiên nhiên, hầu hết những cơ quan của mỗi sinh vật đều có thể dùng để đáp ứng, trong những điều kiện được sửa đổi đôi chút, nhiều mục đích khác nhau, và đều có vai trò trong guồng máy sống của nhiều hình thức cũ đặc thù, khác với những hình thức hiện hữu". Hãy xem ngón tay cái của con panda: xét về cơ thể học, cái đó đúng ra chẳng phải là "ngón tay cái" gì cả, bởi vì nó chẳng phải là ngón tay, nhưng nó đã được "tạo dựng" ra để dùng như một ngón tay cái từ một cái xương bàn tay, vì hậu quả của sự "chọn lọc tự nhiên". Thượng đế chẳng ăn nhậu gì trong việc sinh ra "ngón tay cái" này cả (21).
Ý tưởng nói trên đã được Darwin diễn giảng rộng ra từ khảo cứu của ông về cây lan. Lan là giống hoa vừa đực vừa cái; nếu chất đực và chất cái từ cùng một hoa phải yêu đương nhau để sinh con nở cái - nghĩa là nếu tự một hoa lan trong cùng một cây phải làm nhiệm vụ nối dõi tông đường - thì lan sẽ yếu giống, nhan sắc của hậu duệ có hiểm họa tàn phai. Bởi vậy, cây lan đã vận dụng đến nhiều môi giới khác nhau để truyền giống: gởi phấn cho ong bướm, bắn sâu bọ vào phấn hoa, buộc khách làng chơi phải tích tụ phấn hoa bằng những vuốt ve trong tận thâm cung bí ẩn. "Quan sát các loại lan, không có sự kiện nào đập vào mắt tôi bằng muôn vàn cấu trúc đã dùng để thực hiện cùng một mục đích: làm thụ thai một hoa bằng phấn của một hoa khác" (22).
Vô tận cách thức được áp dụng để thực hiện một mục đích là kết quả của ngẫu nhiên, thuần túy ngẫu nhiên. Chẳng có một chương trình gì của một Thượng đế nào đã sắp đặt trước. Trừ khi ta tưởng tượng có một ông Thượng đế thích gửi phấn cho hoa, gửi hương cho gió, gửi gió cho mây ngàn bay… Hay, như Darwin nói, một ông Thượng đế thích tạo ra nhiều hình thức khác nhau chỉ để thỏa mãn cái thích thấy muôn hình muôn vẻ, "như đồ chơi trong hiệu bán đồ chơỉ". Thượng đế như vậy thì đáng yêu quá, nhưng "quan niệm thiên nhiên theo kiểu đó thì quả là hết nước nói" (23).
Nếu thiên nhiên không biểu lộ ý muốn của Thượng đế, vậy thì thiên nhiên nói cái gì? Nếu Thượng đế vắng mặt trong thiên nhiên, cái gì trong thiên nhiên nói lên ý nghĩa của sự sống? Đặt câu hỏi như thế, đối với Darwin, đã là sai rồi. Bởi vì câu hỏi đó là câu hỏi của con người, khái niệm thiện ác lành dữ là từ cái đầu của con người mà ra, chứ thiên nhiên không biết đến. Thiên nhiên không biết bởi vì thiên nhiên là thiên nhiên. Thiên nhiên đã hiện hữu từ vô tận thời gian trước khi có con người, đâu cần biết con người sẽ sinh ra, vậy thì thiên nhiên cần quái gì con người? Thiên nhiên cứ bình thản như thế, khi lành khi dữ, không có luân lý đạo đức gì ráo. Đừng gán cho thiên nhiên những tình cảm, những mong đợi của chính mỗi chúng ta. Tình cảm đó là của chính ta, thiên nhiên không có tình cảm. Darwin thú nhận: lúc trẻ, ông cũng rờn rợn cảm giác tôn giáo, tưởng như có mặt Thượng đế khi choáng ngợp trước cảnh hùng vĩ của rừng rậm Brazil. "Nhưng bây giờ, những cảnh hùng vĩ nhất cũng không gợi lên trong tôi một niềm tin gì hay một tình cảm nào tương tự […] có liên hệ thâm sâu đến niềm tin Thượng đế" (24).
Niềm tin tôn giáo là của con người phóng vào thiên nhiên, tưởng rằng thiên nhiên có bản chất tốt, làm chứng cho sự thương xót của Thượng đế. "Nhưng, ông viết, tôi thú nhận rằng tôi không thấy rõ ràng như những người khác, cũng không thấy như tôi muốn, những dấu hiệu của một ý định tổng quát và của một lòng nhân từ độ lượng đối với chúng ta" (25). Ngược lại, ông thấy bao nhiêu đau khổ tràn ngập trần thế. Làm thế nào giải thích những sự kiện thiên nhiên tràn đầy đau khổ như vậy? Làm sao một Thượng đế nhân từ lại có cái ý muốn kỳ quặc, nham hiểm tạo ra con ong ichneumon đẻ trứng trong thân thể những con sâu bướm đang sống để bầu đoàn quý tử của nó, khi trứng nở ra, lúc nhúc xơi tái các vị chủ nhà rộng lượng kia từ ruột đến da? Tạo chi con mèo chơi trò tra tấn dã man con chuột trước khi đánh chén? Tạo chi đứa bé sinh ra đã bị khờ? Tiêu chuẩn đạo lý ở đâu, ông hỏi. Cắt nghĩa thế nào hai bộ mặt đó của thiên nhiên, bộ mặt hùng vĩ tuyệt vời của vũ trụ và bộ mặt tàn nhẫn hiểm ác tràn đầy trong sự sống?
Ông trả lời: "Tôi tưởng nên nghĩ rằng tất cả đều bắt nguồn từ những luật đã được tổ chức, nhưng về phần chi tiết tốt hay xấu thì thuộc về cái mà ta có thể gọi là ngẫu nhiên. Ý tưởng này chẳng làm tôi hài lòng chút nào. Tận đáy lòng, tôi cảm thấy tất cả câu hỏi đó quá sâu cho sự hiểu biết của con người. Chẳng khác gì hỏi con chó lý giải về trí óc của Newton" (26).
Nhà khoa học Stephen Jay Gould, mà các tác phẩm đã làm tôi say mê vì ông viết về khoa học mà cứ như là viết văn, đã trích dẫn một bài thơ của Robert Frost lấy hứng từ cái ý ngẫu nhiên đó của Darwin. Một buổi sáng tinh sương, trên đường đi dạo, nhà thơ bỗng thấy ba cái gì trắng trắng giăng trước mắt. Buổi sáng trong veo, ba cái gì trắng trắng trong veo, quang cảnh tinh khôi, trong veo, như lấp lánh ý lành của trời đất. Lại gần, nhà thơ thấy gì? Một con nhện trắng giăng tơ trắng trên một cuống hoa trắng và một con bướm trắng nằm gãy cánh trong tơ.
Từ những
chuyện vặt
Đọc những sách viết về Darwin và đọc Tự
Truyện của ông, kẻ rất dốt về khoa học là tôi chỉ dám để ý đến những chuyện
vặt. Chẳng hạn chuyện vặt về con người của ông. Chuyện vặt về dăm ba ý tưởng lộ
ra bên lề những vấn đề khoa học lớn mà tôi không vói tới.
Vô duyên hết sức, chuyện vợ con tình ái là chuyện trước tiên mà tôi tò mò muốn biết mỗi khi chiêm nghiệm về cuộc đời của bất cứ ai, không chỉ của danh nhân. Cho nên tôi muốn biết ông lấy vợ như thế nào. Đúng là nhà khoa học! Tôi chưa thấy ai viết gãy gọn trên giấy trắng mực đen những loay hoay tính toán chi ly trong đầu về cái gì là lợi, cái gì là hại, của việc lấy vợ. Thói thường, tuy là đại sự, ai cũng phải đánh liều đưa chân nhắm mắt, không cả hai con thì cũng một. Ông thì không! Trên giấy trắng, ông tính toán, như người ta tính sổ ngân hàng, cột này là tiền vào, cột kia là tiền ra, đây là thu, đó là chi, này là được, nọ là mất, cột bên trái là lợi lộc nếu lấy vợ, cột bên phải là hư hao nếu không lấy. Hai trang giấy dày đặc. Trên trang đầu, nghiêm trang ngự trị một cái nhan đề: "Đây là vấn đề". That's the question! Y chang Hamlet: to be or not to be. Kết luận: To be! "Lấy vợ!" "Lấy vợ!" "Lấy vợ!" "Can đảm lên… Chẳng hề gì đâu… Hãy tin ở ngẫu nhiên… biết bao tên nô lệ đã sung sướng"!
Trang giấy hai cột đó, với những dòng chữ hào hùng kia, ông nguệch ngoạc vào năm 1837-1838. Ông lấy vợ ngày 29-1-1939. Vợ ông, Emma, năm đó 30 tuổi. Ở tuổi ấy, vào thế kỷ ấy, bà có cơ nguy khó tìm đôi lứa. Bởi vậy, mọi chuyện xảy đến đều nhanh. Ông bà biết nhau vì có quan hệ bà con rất gần. Quen thì quen vậy từ ba mươi năm, nhưng sôi sục thì chưa, cho nên bà không khỏi sửng sốt khi ông bất thần cầu hôn. Và khi bà nhận lời thì ông cũng giật mình.
Đọc chuyện vợ con ở đây, tò mò của tôi nhắm vào hướng khác. Tôi không thỏa mãn với giải thích của John Van Wyhe về im lặng của Darwin trong suốt 21 năm trước khi xuất bản tác phẩm "Nguồn cội…". Tuy Van Wyhe đã đưa ra những luận cứ rất thuyết phục, tôi vẫn nghĩ rằng, đối với một người đã đắn đo, cân nhắc chi ly ngay cả trong chuyện trăm năm, việc đắn đo cân nhắc trước khi công bố một tác phẩm động trời có thể hiểu được. Nhận định của tôi là chủ quan, riêng tư, tôi biết, nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ rằng trong suốt 21 năm, biết đâu mỗi ngày Darwin đều có nguệch ngoạc một trang giấy hai cột như vậy trong đầu để kết luận là not to be, khoan công bố. Biết đâu những trang giấy vô hình đó đã làm ông đau hoài đau mãi, đau những trận đau kỳ lạ, bác sĩ cũng không biết bệnh gì.
Trong những sách viết về Darwin, tôi thích cái nhan đề này của David Quammen: "The Reluctant Mr Darwin", ông Darwin lưỡng lự. Không phải Darwin lưỡng lự về niềm tin khoa học của ông. Ông tin chắc ở lý thuyết của ông, không lay chuyển. Nhưng ông không mù quáng về niềm tin khoa học, không tín điều, không cho rằng khoa học có thể giải thích tất cả. Ông không tin nữa ở Thượng đế, nhưng ông không báng bổ Thượng đế, Thượng đế có lĩnh vực vinh quang riêng của Ngài, miễn là đại diện của Ngài đừng xía vào lĩnh vực khoa học. Ai đọc Tự Truyện của ông đều nhặt ra được nhiều chi tiết cho phép tưởng tượng ra được một con người không hề cực đoan. Tôi cũng chỉ làm cái việc tưởng tượng ấy mà thôi. Tôi trích một chuyện vặt ông kể về thân phụ của ông, bác sĩ, nhưng lại rất sợ máu, sợ đến nỗi đã truyền cái sợ máu chảy ấy cho ông:
"Hồi trẻ, cha tôi có gia nhập hội Franc-Maçon. Một người bạn của cha tôi, cũng franc-maçon, giả vờ không biết cha tôi sợ máu, hỏi ông khi hai người cùng đi đến dự buổi lễ khai tâm: "Cậu đâu có ngán mất vài giọt máu phải không? " Hình như, trong buổi lễ gia nhập đoàn thể, người ta bịt mắt cha tôi và xắn tay áo của ông lên. Tôi không biết ngày nay một buổi lễ như vậy có còn diễn ra không, nhưng cha tôi nói về buổi lễ hôm ấy như một ví dụ tuyệt hảo về sức mạnh của tưởng tượng, bởi vì ông cảm thấy rõ ràng máu chảy dọc theo cánh tay của ông, và ông không tin ở mắt của ông sau đó khi ông không thấy dấu tích gì của một vết chích nào" (27).
Ai dám nói tâm lý không có ảnh hưởng gì trên vật chất? Tâm không có ảnh hưởng gì trên thân?
Một chuyện vặt khác nữa, cũng về thân phụ của ông. Ông viết về cha khá nhiều.
"Lúc cha tôi hãy còn rất trẻ, một hôm ông được gọi đến khám bệnh, cùng với một vị bác sĩ già của gia đình, tại một nhà quý phái, rất có tiếng. Vị bác sĩ già nói nhỏ với vợ người chủ nhà: bệnh ấy của chồng bà nặng lắm, chắc không qua khỏi. Cha tôi thì nghĩ trái lại và quả quyết là bệnh sẽ lành. Sau đó thì sự việc cho biết là cha tôi đã chẩn đoán sai và ông cũng công nhận là mình sai. Ông tin chắc là gia đình ấy sẽ không bao giờ mời ông khám bệnh nữa, vậy mà, vài tháng sau, bà góa phụ của người chủ nhà lại mời ông đến thay vì mời vị bác sĩ già của gia đình. Cha tôi ngạc nhiên đến độ phải đi hỏi người bạn của bà góa phụ tại sao ông lại được mời lần nữa. Bà góa phụ trả lời rằng bà không muốn thấy cái mặt của ông bác sĩ già đáng tởm kia nữa vì đã nói ngay từ đầu rằng chồng bà sẽ chết, còn bác sĩ Darwin thì quả quyết là sẽ chữa được" (28).
Thế thì con người có một bản tính tự nhiên chăng? Chưa hết. Cũng bản tính tự nhiên ấy nữa được kể tiếp:
"Trong một vụ khác, cha tôi quả quyết với một bà rằng chồng của bà sẽ chết thôi. Vài tháng sau, ông gặp lại bà ấy, đã thành quả phụ; bà nói với giọng chín chắn: "Ông đang còn rất trẻ, cho phép tôi khuyên ông: càng lâu chừng nào càng tốt chừng ấy, ông hãy luôn luôn ban hy vọng cho người săn sóc bệnh nhân. Ông đã làm tôi mất hy vọng, và từ đó đến nay, tôi mất hết sức lực" (29).
Con người có bản tính tự nhiên hay không là một vấn đề mà Darwin ngờ vực. Ông nói: lúc nhỏ, ông là một đứa bé giàu lòng thương người, nhưng đó là tính nết mà ông đã học được và đã bắt chước từ các bà chị của ông. Vậy mà, khi kể hai chuyện vặt nói trên về thân sinh của ông, ông kể như "đưa ra hình ảnh kỳ lạ của bản tính con người" (30). Con người đâu có phải chỉ là vật chất? Vật chất sao được, khi những chuyện ông kể về tâm lý buộc người đọc phải nghĩ về một Darwin khác, một Darwin biết suy nghĩ quân bình giữa sinh lý và tâm lý. Đây, chuyện vặt về tâm lý, cũng liên quan đến thân sinh của ông:
"Cha tôi thường kể cho tôi nghe những chuyện lặt vặt mà ông cho là có ích cho nghề y khoa của ông. Chẳng hạn, các bà hay khóc tức ta tức tưởi khi kể cho ông nghe bệnh của họ, khiến ông quá mất thì giờ. Ông để ý rằng, nếu ông bảo các bà ấy chận nước mắt lại, đừng khóc nữa, thì các bà càng khóc to hơn, cho nên lúc nào ông cũng khuyến khích các bà ấy khóc, nói rằng khóc cho nguôi đi. Kết quả là mười lần như chục, các bà ngưng khóc ngay" (31).
Chuyện vặt ấy, và nhiều chuyện vặt khác nữa về phụ nữ, khiến người đọc phải nghĩ: ô hay, không những con người có thể có bản tính, mà người phụ nữ cũng có bản tính đàn bà chăng?
Từ chuyện vặt bắt qua chuyện lớn, Darwin luôn luôn mực thước trong lý thuyết. Con người là tiến hóa từ loài khỉ chăng? Bao nhiêu nhà khoa học danh tiếng về thuyết tiến hóa đã loại con người ra khỏi tranh luận về thuyết ấy vì Kinh thánh đã dạy: Thượng đế đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài. Ngay cả Wallace, đồng tác giả với Darwin, cũng chủ trương bộ não của con người là ngoại lệ. Ảnh hưởng của tôn giáo đè nặng trên tư tưởng phương Tây đến nỗi bao nhiêu nghiên cứu khoa học chỉ nhắm vào mỗi một việc là tìm cho ra một tiêu chuẩn chính xác để phân biệt về phẩm chất giữa người và giống khỉ chimpanzé và gorille. Nhưng cũng biết bao nhiêu nhà khoa học ngày nay chẳng nghi ngờ gì nữa về sự tiếp tục không ngừng giữa người và khỉ. Họ thấy chẳng làm hạ giá con người chút nào khi đặt con người vào lại Thiên Nhiên: ai dám bảo hình ảnh đó không hùng tráng bằng hình ảnh con của Thượng đế? Giữa cơn động đất về tư tưởng mà Darwin là nguyên nhân, ông đã nói gì thực sự? Rất thận trọng, ông viết một câu cực kỳ đơn giản trong lần xuất bản đầu tiên tác phẩm "Nguồn cội…": "Ánh sáng sẽ rọi vào nguồn gốc và lịch sử của con người". Trong những lần tái bản kế tiếp, ông chỉ thêm một chữ ở đầu câu: "Tất cả". Tất cả ánh sáng. Ánh sáng của ông chưa rọi đến!
Về nguồn gốc đầu tiên của con người, ông lý luận: lúc đầu, ông cũng tin có một Nguyên Nhân đầu tiên, do trí óc của con người nghĩ ra, nhưng càng nghiên cứu sinh vật, ông lại càng nghi ngờ khả năng đó của trí óc. Tại sao? Tại vì "trí óc của con người, mà tôi chắc chắn là đã phát triển từ một trí óc thô thiển không khác gì trí óc của một con vật thấp kém nhất, trí óc ấy có đáng cho ta tin cậy được chăng khi nó nghĩ ra một kết luận về ý nghĩa ghê gớm như vậy? Kết luận ấy phải chăng chỉ là kết quả của một liên hệ nhân quả mà ta cho là cần thiết, nhưng rất có thể tùy thuộc vào một kinh nghiệm được thừa kế? Phải chăng ta đã xem quá nhẹ khả năng của giáo dục, giáo dục ấy đã gieo vào đầu trẻ em lòng tin Thượng đế và có thể đã tạo ra một hậu quả phi thường có tính di truyền trên những bộ não hãy còn non nớt? Giải phóng những bộ não ấy ra khỏi lòng tin Thượng đế khó chẳng khác gì giải phóng con khỉ ra khỏi mối sợ hãi bản năng trước con rắn" (32).
Tuy vậy, tuy tin chắc chắn vậy, ông vẫn giữ một thái độ khoa học khiêm tốn và thú nhận: "Tôi không có ý rọi một tia sáng gì vào những vấn đề mờ mịt như thế. Bí mât về khởi thủy của vạn vật chưa dò tới được" (33).
Ngay cả lý thuyết về cạnh tranh sinh tồn, nòng cốt như thế trong khám phá của ông, ông vẫn không xem đó là giải thích duy nhất, là tín điều, về biến đổi. Ông thừa nhận các yếu tố khác nữa, như sự di truyền của tính nết đã hấp thụ, như việc sử dụng hay không sử dụng các bộ phận của cơ thể trong tiến hóa. Ông không khép lại cánh cửa của những khám phá khác trong tương lai, ông mở ra, mời đón. Bởi vì, ông nói, ông "luôn luôn cố gắng giữ trí óc tự do để có thể từ bỏ một giả thuyết, dù hấp dẫn, nếu sự kiện phản kháng lại" (34). Trong suốt 21 năm im lặng trước khi xuất bản "Nguồn cội…", ông đã âm thầm thu thập thêm bao nhiêu sự kiện nữa để chắc chắn rằng lý thuyết mình đưa ra đủ sức thuyết phục. Nhưng điều đáng ghi nhận hơn nữa là ông đã bày tỏ những ngờ vực của mình một cách thẳng thắn như bày tỏ những xác quyết. Mỗi tác phẩm mà ông đã lần lượt xuất bản đều đánh dấu một chặng đường đưa đến một hiểu biết mới. Ông luôn luôn khai phóng, chưa bao giờ chấp chặt, co quắp trong tín điều (35).
Trong một thư gửi bạn năm 1869, ông viết: "Giá như tôi được sống thêm 20 năm nữa và còn khả năng làm việc, tôi sẽ còn thay đổi "Nguồn cội…" biết bao nhiêu nữa, và biết bao nhiêu nữa ý nghĩ của tôi về mỗi điểm sẽ đổi khác! Nhưng thôi, đây là bước đầu, mà như thế cũng đã được rồi…" (36). Vừa xác quyết chân lý, vừa gạt bỏ tín điều: một câu thư riêng thôi, nhưng chân chính bao nhiêu thái độ khoa học.
Tôi thích bình luận của Stephen Jay Gould về thái độ khiêm tốn và thông thoáng ấy của Darwin. "Thiên nhiên, Gould viết, phức tạp và phong phú đến nỗi cái gì cũng có thể xảy ra. Một giải thích tổng quát, rõ ràng và tối hậu về những vấn đề của sự sống là không thể có được. Ta có thể tìm được câu trả lời hợp lý cho những vấn đề quan trọng bậc trung. Nhưng đối với những vấn đề tối hậu, câu trả lời ngã quỵ trước thiên nhiên quá giàu có. Vậy mà vui! Một thiên nhiên hãy còn giữ bí mật mới đem lại bao nhiêu thích thú cho cuộc sống, mới đem lại bao nhiêu hứng khởi cho những bước chân tìm tòi lần mò" (37).
Hãy để cho các nhà thần giáo co rúm với cái chìa khóa trong tay họ, miễn là họ đừng bắt cả thiên hạ đều phải chui vào cùng một cánh cửa. Riêng tôi, đứng trước ngưỡng cửa khoa học của Darwin, tôi chỉ muốn hỏi thêm ông một câu hỏi nhỏ của người đọc Tự Truyện của ông.
Ở trang 70, ông kể về khởi thủy của chuyến đi khảo cứu trên tàu Beagle năm 1831, ông viết: thuyền trưởng FitzRoy "suýt nữa từ chối, không cho tôi đi, vì hình dáng của cái mũi của tôi". Thạo nghề xem tướng, FitzRoy ngờ rằng với một cái mũi có hình dáng như vậy, chủ nhân của nó không thể là người có đủ năng lực và quyết tâm để làm một cuộc phiêu du 5 năm ròng rã. Tôi muốn hỏi: giá như viên thuyền trưởng tin chắc ở tài xem tướng của mình và hành động theo đúng như vậy, Darwin có trở thành Darwin và khoa học có chăng một Darwin để thế giới kỷ niệm 200 năm? Vậy cái gì làm Darwin trở thành Darwin? Sự thiếu tin tưởng của viên thuyền trưởng về tài xem tướng? Thượng đế muốn ông đi để chứng minh ngài không có? Hay ngẫu nhiên?
Tôi xếp Tự Truyện của Darwin, nhưng tấm ảnh của ông trên bìa cứ bắt tôi phải nhìn cái mũi. Tôi thấy nó cựa quậy như muốn nói với tôi: làm gì có một nguyên nhân duy nhất cho mỗi sự việc? Sự việc nào lại không có trùng trùng nguyên nhân! Nói gì nguyên nhân đầu tiên!
Cao Huy Thuần
Chú thích
1. Dominique Lecourt, L'Amérique entre la
Bible et Darwin, PUF, 1992, trang 33-34.
2. David Quammen, The Reluctant Mr Darwin, Great Discoveries Series, Atlas Books, W.W. Norton & Company, New York-London, 2006, trang 15.
3. Charles Darwin, L'Autobiographie, Seuil, 2008, trang 26.
4. Như trên, trang 55.
5. Như trên, trang 56.
6. Sách của William Paley là: Natural Theology; or Evidences of the Existence and Attributes of the Deity collected from the Appearances of Nature, 1802, và Moral and Political Philosophy, 1785.
7. Lecourt, trang 44.
8. L'Autobiographie, trang 81.
9. Như trên, trang 83.
10. Stephen Jay Gould, Darwin et les grandes énigmes de la vie, Pygmalion, 1979, trang 11.
11. Quammen, trang 207.
12. L'Autobiographie, trang 151.
13. Quammen, trang 198.
14. John Van Wyhe, Mind the Gap: Did Darwin Avoid Publishing His Theory For Many Years? Notes and Records of the Royal Society (doi:10.1098/rsnr.2006.0171;2007).
15. L'Autobiographie, trang 231.
16. Như trên, trang 83.
17. Gould, Darwin et les grandes énigmes de la vie, trang 22.
18. Như trên, trang 24.
19. Như trên, trang 24.
20. Stephen Jay Gould, Et Dieu dit: "Que Darwin soit!", Seuil, 2000, trang 185-186.
21. Stephen Jay Gould, Le pouce du panda, trích bởi D. Lecourt, trang 49.
22. http://bibliobs.nouvelobs.com/blog/darwin/20090319/11380/darwin-1872-larme-fatale-contre-les-creationnistes
23. Cũng vậy
24. L'Autobiographie, trang 87.
25. Gould, Et Dieu dit…, trang 181.
26. Như trên, trang 46.
27. L'Autobiographie, trang 31.
28. Như trên, trang 38.
29. Như trên.
30. Như trên, trang 37.
31. Như trên..
32. Như trên, trang 89.
33. Như trên.
34. Như trên, trang 132.
35. Xem bài Tựa của Nora Barlow trong L'Autobiographie.
36. Thư gửi J.D. Hooker đăng trong bài Tựa của Barlow.
37. Gould, Darwin et les grandes énigmes de la vie, trang 279.
-------------------------------------------
Tóm
tắt : Thượng Đế nói :
"Hôm nay chủ nhật, ta không tiếp khách.
Muốn hỏi gì, bảo gặp Darwin".
"Hôm nay chủ nhật, ta không tiếp khách.
Muốn hỏi gì, bảo gặp Darwin".
Khỉ
Huxley đứng phắt dậy, lính tiền đồn như thường lệ: "Tôi nghĩ rằng chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo". Sinh viên vỗ tay như sấm (1).
Từ đó đến nay, chuyện khỉ vẫn không tiến hóa, chiến trận đả đảo Darwin vẫn diễn ra, nhất là với giới Nhà Thờ ở Mỹ. Giống như mọi chiến tranh, bạn và thù phải phân minh tách bạch, ai nhận mình là khỉ thì qua bên kia, ai nhận mình là con cháu Adam thì qua bên này, hoặc là Darwin, hoặc là Thánh kinh. Lý thuyết "chọn lọc tự nhiên" tế nhị là thế, bỗng được đơn giản hóa tối đa, chỉ trắng với đen, quần chúng chỉ được trả lời trên một câu hỏi: có ai thích ông nội của mình là cà khọt cà khẹt?
Kết quả là phe ta đại thắng: từ 60 đến 87% dân chúng Mỹ, tùy hãng phỏng vấn, từ khước Darwin (2). Tội nghiệp ông Darwin, chết vẫn không yên, chỉ vì dám quả quyết. Quả quyết hai chuyện động trời sau một chuyến thám hiểm không tiền định.
Hai quả
quyết
Luận lý ấy là nòng cốt của "thần học tự nhiên", là nước giếng mà Darwin đã uống như ông đã uống nước giếng toán học của Euclide. Trong Thiên Nhiên, cũng như trong cơ thể của sinh vật, chẳng phải ở đâu cũng thấy dấu hiệu của Ý Định đó sao? Hãy nhìn Thiên Nhiên: trong trật tự mầu nhiệm cũng như trong cuồng nộ thoáng qua, sao chẳng thấy bàn tay sắp đặt cực kỳ thông minh ấy? Thượng đế sáng tạo theo một "dây chuyền sinh loại", từ sinh loại thấp nhất, thô nhất, đến sinh loại cao nhất là con người, và qua con người, mọi sự mọi vật đều móc xích với Thượng đế. Mọi sự mọi vật đều dính mắc với nhau, chuyển động trong trật tự hài hòa, không sai chậy, giống như cái đồng hồ chính xác, và Thượng đề là Ông Đồng Hồ toàn hảo.
Dù là Galilée, dù là Newton, các đại khoa học gia ở thế kỷ 16-18 đều phải nhận có Ông Đồng Hồ để trước là yên thân với chính mình, sau là yên thân với Nhà Thờ. Gần với Darwin hơn cả và trước ông, Lamarck (1744-1829) cũng đã thuyết giảng về tiến hóa của các sinh loại theo chiều "tiến bộ" như thế, đi dần từ thấp lên cao, càng ngày càng hoàn hảo hơn, dưới áp lực của một "sức mạnh" sáng tạo và cưỡng bách, để thích nghi với môi trường bên ngoài. Vì sự cưỡng bách đó, các cơ thể phải kinh qua kinh nghiệm của các "nhu cầu", và các "nhu cầu" này thay đổi theo với các "hoàn cảnh" ở bên ngoài. Từ các "nhu cầu" đó, sinh ra những "thói quen" mới, làm biến đổi những thủy lượng (fluide) đã tạo nên cơ thể. Từ đó, sinh ra những đặc tính mới có tính di truyền, truyền từ đời này qua đời sau, mỗi đời mỗi tích lũy thêm. Cho nên con hươu cao cổ trở thành con hươu có cái cổ cao vòi vọi: từ từ, dần dần, cái cổ cứ cao thêm để cái lưỡi nó vói tới lá cây trên cao trong những miền mà khí hậu dần dần bị hấp khô. Cái cổ của các chú - và nàng - hươu ấy phải rướn lên vì thèm ăn, vì đói, vì cố gắng, vì kiên nhẫn, vì… cứng đầu từ cố tổ cao tằng của dòng họ hươu trải qua bao thời đại. Lamarck đã viết như thế từ 1802 và Darwin đã đọc: "Từ thế kỷ này qua thế kỷ kia, trải qua một chuỗi dài thế kỷ, không thể tránh được việc có thể có các loại sinh vật mới xuất hiện…" Nói như thế, trong thời đại Lamarck, đã là bạo lắm rồi, nhưng nhà sinh vật học ấy vẫn chưa thoát khỏi ý nghĩ cổ điển về trật tự của thiên nhiên trong đó đã ngầm sẵn một ý nghĩa. Trật tự đó đi từ thấp lên cao, hoàn hảo, toàn bích, dưới bàn tay thông minh của một Đấng Sáng Tạo.
Vậy thì, khi chàng thanh niên Darwin 22 tuổi bước lên tàu Beagle, chàng là người tin đạo, trong đầu cũng như trong tim, trong trắng, thơ ngây. Chàng viết: "Trên chiếc Beagle, tôi là tín đồ chính thống; tôi còn nhớ đã làm các sĩ quan trên tàu cười phì khi tôi cứ trích dẫn Thánh kinh như bằng chứng không gì chối cãi được để biện minh cho một vấn đề luân lý nào đó" (8). Năm năm nghiên cứu sinh vật trên các ven biển, khoa học đã làm ông mở mắt. Ông mở mắt từ từ, "hoài nghi xâm chiếm tôi rất chậm nhưng cũng rất chắc. Tiến triển ấy chậm đến nỗi tôi không cảm thấy một chút áy náy gì, và từ đó đến nay chưa có một giây phút nào tôi nghi ngờ về tính xác thực của khám phá của tôi". Ông viết thêm về nguồn suối Paley: "Lý luận xưa cũ về một cứu cánh trong thiên nhiên, như Paley trình bày, mà ngày trước tôi thấy không gì xác thực hơn, bây giờ rơi vỡ tan tành xuống đất từ khi tôi khám phá ra luật chọn lọc tự nhiên. Giờ đây, ta không thể nói, chẳng hạn, rằng cái bản lề xinh đẹp khép mở nơi hai tấm vỏ sò phải là sáng tác của một đấng thông minh giống như cái bản lề khép mở nơi cánh cửa là sáng tác của người thợ mộc. Trong muôn loài sinh vật hữu cơ và trong tác động của chọn lọc tự nhiên, chẳng hề có một cứu cánh nào lớn hơn phương hướng của một làn gió thổi. Tất cả trong thiên nhiên đều là kết quả của những định luật bất biến" (9).
Những định luật gì? Chân lý khoa học mà Darwin khám phá rất đơn giản:
1. Các cơ thể sinh
vật đều biến chuyển và những biến chuyển ấy được truyền lại - ít ra là một phần
- cho con cháu.
2. Các sinh vật
sinh ra con cháu nhiều hơn là số con cháu sống sót.
3. Trên nguyên
tắc, con cháu nào biến chuyển trong chiều hướng mà môi trường chung quanh ưu
đãi thì sống sót và sinh sản. Như vậy, sự biến chuyển thích hợp mà sinh vật nào
cũng phải tuân theo được diễn ra do chọn lọc tự nhiên.
Về điểm thứ nhất, "tiến hóa" không
phải là khái niệm mới trong thời đại của Darwin. Trước Darwin và chung quanh
ông, các nhà sinh vật đã biết đến rồi. Nhưng "tiến hóa" trong khám
phá của Darwin không phải "tiến hóa" theo quan niệm của người đương
thời. Cho đến lúc đó, khái niệm "tiến hóa" bao hàm một trật tự có
sẵn, đi từ thấp lên cao, từ thô đến tế, từ đơn giản đến phức tạp, càng ngày
càng hoàn thiện. Darwin chống lại quan niệm đó, tránh dùng những từ
"thấp" với "cao" khi mô tả cấu trúc của các cơ thể sinh
vật. Giữa con người và con a-míp, không ai cao ai thấp nếu xét về khả năng
thích nghi với môi trường chung quanh. Bởi vậy, Darwin tránh dùng từ
"tiến hóa" chẳng có liên quan gì với tiến bộ hiểu theo nghĩa thông
thường cũng như hiểu theo nghĩa của các nhà khoa học tin ở Thượng đế. Ông nhắc
lui nhắc tới: sự thay đổi trong cơ thể của sinh vật chẳng hướng theo cứu cánh
gì cả, chỉ vì tự nhiên phải bắt buộc làm cho cơ thể thích nghi tốt hơn với môi trường
chung quanh, chứ tuyệt đối không phải để rập theo một ý nghĩ trừu tượng về tiến
bộ, phức tạp hơn, thông minh hơn. Thay vì "tiến hóa", Darwin dùng từ
dài hơn để chính xác hơn: "truyền thừa với thay đổi". Mình
thay đổi, rồi truyền thừa sự thay đổi đó cho hậu duệ. Hậu duệ thay đổi thế nào? Ở đây, Darwin đổi mới hoàn toàn so với những quan niệm có trước. Trước ông, người ta nghĩ rằng cả một giống sinh vật thay đổi. Ông khám phá ra điều khác: không phải cả giống thay đổi mà cá nhân trong mỗi giống thay đổi (điều 2 và 3 ở trên). Cá nhân thay đổi rồi truyền thừa thay đổi của mình cho đời sau, khiến các giống sinh vật được tạo ra rồi được biến đổi theo. Cá nhân nào thay đổi? Chỉ những cá nhân nào thích nghi giỏi với môi trường chung quanh. Đây là cái lõi của khám phá, mang tên là "chọn lọc tự nhiên", nghe chẳng có gì ghê gớm mà kỳ thật là kinh thiên động địa đối với thế giới thần học. "Chọn lọc" diễn ra bằng những thay đổi rất nhỏ, rất vi tế, trong cơ thể của các cá nhân; đến một lúc nào đó, một thay đổi nào đó mang lại cho một cơ thể nào đó một lợi thế khiến nó thắng các cá nhân khác trong cuộc đấu tranh tất nhiên phải xảy ra để giành nhau các phương tiện sống; thay đổi đó được truyền lại cho hậu duệ, hậu duệ này sinh sản phát triển lên với một hình thức khác với hình thức trước đó. Đâu là cách mạng mà Darwin mang lại?
Thứ nhất, Darwin quả quyết: thiên nhiên chẳng hàm chứa một ý định thiêng liêng của một đấng nào. Tiến hóa chẳng có một mục đích gì ráo. Các cá nhân tranh đấu để làm tăng lên sự hiện diện của gène trong hậu duệ, chỉ thế thôi, chấm hết (10).
Thứ hai, Darwin nói rõ: những "thay đổi vi tế" nhờ đó các cá nhân được chọn lọc để sinh tồn xảy ra do "tình cờ" - tình cờ với nghĩa là không có một chương trình nào đã được vạch sẵn trước. Cả hai quả quyết làm ngứa ngáy thần học.
Tiến hóa? Các nhà thần học và các nhà làm khoa học tin ở Thượng đế có thể chấp nhận được chừng nào họ còn biện minh được bằng giải thích: đó là ý muốn của Thượng đế. Họ nói: Thượng đế đã nắm trong tay các định luật cai trị vũ trụ, đã tạo và truyền sự sống, đã cho phép các loài sinh vật thay đổi với thời gian, và - ở một thời điểm thần bí nào đó - đã chích một mũi tâm linh vào sinh vật mà sau này được gọi là Homo Sapiens, thủy tổ của loài người. Với thuyết "chọn lọc tự nhiên" của Darwin, luận lý đó hết chỗ đứng. Không những "chọn lọc tự nhiên" đã thay thế ý định của Thượng đế, mà hậu quả của thuyết đó lại còn độc địa hơn: con người mất cái quy chế đặc biệt là được Thượng đế chọn và sinh ra theo hình dáng của Ngài.
Tình cờ? Ngẫu nhiên? Độc địa không kém. Darwin giải thích trong "Nguồn cội…": thay đổi trong cơ thể sinh vật xảy ra để đáp ứng với "những điều kiện của đời sống", khó khăn, nguy biến - khí hậu khe khắt, thực phẩm khan hiếm, nơi ở bất an… Nhưng ông nói thêm: những thay đổi xảy ra "bằng cách không định trước được" (11). Nghĩa là gì? Trong quyển "Nguồn cội…", ông dùng từ "may rủi" và giải thích: "Nói rằng "do may rủi" là một cách nói không đúng, là nói theo nghĩa thông thường, cốt chỉ "để thừa nhận rành rọt ta chẳng biết gì về nguyên nhân" của mỗi thay đổi. Cách nói đó không đúng vì những thay đổi quả là có những nguyên nhân vật chất; chúng không hề có một cứu cánh gì định trước. Chẳng hạn, một hạn hán có thể làm tăng tốc độ những thay đổi nơi một loài sinh vật mà không nhất thiết thúc đẩy những thay đổi đặc biệt nào để làm tốt hơn sức chịu đựng của một sinh vật đối với hạn hán. Hoặc là một hạn hán có thể làm sinh ra một thay đổi để chịu đựng hạn hán cộng thêm 5 thay đổi nữa nhưng vô dụng hoặc có hại. Nếu thế, chọn lọc tự nhiên có thể có khuynh hướng bảo tồn và nhân lên thay đổi đó. Chọn lọc tự nhiên là có phương hướng; thay đổi, cung cấp nguyên liệu cho quá trình chọn lọc thì không.
Không có phương hướng: "may rủi" là như vậy, là không có ý định gì cả. Trong một thư viết năm 1870 cho một bạn đồng nghiệp, J. D. Hooker, ông nói thêm: "Tôi không thể nhìn vũ trụ như là kết quả của một ngẫu nhiên mù lòa, tuy vậy tôi không thấy một bằng chứng gì về một cứu cánh tốt lành, ngay cả bất cứ một cứu cánh gì, trong những chi tiết" (12).
Với cả hai quả quyết đó, Darwin biết mình đã đi quá xa, không phải trên địa hạt khoa học, mà chính là trong trận địa triết lý: lý thuyết của ông sẽ bị kết án là duy vật chủ nghĩa. Chính thế, vũ trụ không phải là kết quả của một ý định mà của "những định luật ghi khắc trên vật chất", có thể khám phá được và không thay đổi. Luật của tiến hóa cũng giống như luật của trọng lực, của hơi nóng. Đó là những luật liên quan đến sự phát triển của sinh vật, sinh sản, di truyền, biến đổi, áp lực của dân số, cạnh tranh sinh tồn, tất cả phối hợp với nhau để phát sinh ra sự chọn lọc tự nhiên, đưa đến một kết quả mà Darwin cho là "hùng tráng", đúng thế, "hùng tráng", trong đó, "từ những hình thức đơn giản lúc khởi thủy, vô vàn những hình thức đẹp nhất, kỳ lạ nhất, đã sinh ra và đang sinh ra" (13).
Lý thuyết ấy đập vỡ tan tành hai ngàn năm triết lý và tôn giáo của phương Tây. Con người? Không có nguồn gốc gì khác các sinh vật khác. Cũng một nguồn gốc ấy thôi: tiến hóa, chọn lọc tự nhiên. Linh hồn có trước và bất diệt? Darwin diễu Platon: Platon nói rằng những "ý nghĩ tưởng tượng" là đến từ một linh hồn đã có sẵn trước, chứ không phải từ kinh nghiệm; đúng hơn phải nói rằng cái đã có sẵn trước là con khỉ".
Hãy thử tưởng tượng tâm trạng của Darwin lúc đó, sống với một lý thuyết đảo lộn như vậy trong đầu giữa thế kỷ 19 ở Âu châu, dưới thế lực của Nhà Thờ và của thần học đang ngự trị trên tư tưởng và dư luận. Darwin tin chắc ở điều mình khám phá, nhưng nói ra được chăng? Hay là nên sợ?
Sợ
Nhưng hãy thử tưởng tượng: ai có thể giữ một bí ẩn động trời trong lòng suốt 21 năm ròng rã như vậy? Mới đây, có nhà nghiên cứu biện hộ giùm ông rằng trong 21 năm ấy, ông còn phải cật lực tìm hiểu thêm, gom góp thêm sự kiện, khảo sát, thí nghiệm bao nhiêu sự việc khác nữa, còn phải viết, còn phải bổ túc xuất bản những công trình dang dở, nghĩa là còn phải tiếp tục suy nghĩ, cân nhắc, để đưa ra chính xác hơn lý thuyết của mình mà ông biết sẽ gây bão tố, ngay cả trong giới khoa học quen biết (14). Đúng thế. Nhưng khó nghĩ rằng đó là lý lẽ duy nhất. Một trong những lý lẽ không thể bỏ qua là ông sợ. Sợ gì nhất? Sợ kết luận mang tính duy vật. Sợ hệ quả triết lý của một khám phá khoa học.
Đừng nói sợ ai cho xa: ông sợ phật lòng bà vợ. Emma, vợ ông, là tín đồ trung kiên của Thiên chúa giáo. Hai vợ chồng rất tương kính nhau, nhưng ông khổ ngầm vì không tin được nữa như vợ, và bà khổ ngầm vì khoa học dẫn ông đi xa đức tin của bà. Bà thổ lộ trong thư: "Cái gì liên quan đến chàng đều liên quan đến thiếp, và thiếp sẽ rất khổ khi nghĩ rằng chúng ta không là của nhau nữa trong cõi vĩnh viễn" (15). Trong vĩnh viễn đời sau, bà sợ ông sẽ bị trừng phạt, nghĩa là sẽ xa bà trên chốn thiên đường. Mà không bị trừng phạt sao được khi ông dám viết thế này trong "Tự Truyện": "Sự thực, tôi không thể chấp nhận được rằng có người mong muốn Thiên chúa giáo là đúng, bởi vì nếu vậy, Kinh thánh nói rõ rằng người nào không tin, nghĩa là cha tôi, anh tôi, và hầu hết bạn bè thân nhất của tôi, đều phải bị trừng phạt vĩnh viễn. Điều đó quả thật là một học thuyết đáng kết án" (16).
Đáng bị trừng phạt hơn nữa khi Darwin tấn công vào chính cái mà ông gọi là "đồn lũy": trí óc của con người. Nếu trí óc con người không hiện hữu thực sự ngoài bộ não, Thượng đế là gì nếu không phải là hoang tưởng do hoang tưởng bày đặt ra? "Sự việc tư tưởng là do bộ não chiết ra, có gì lạ lùng đâu, có gì lạ lùng hơn sự việc trọng lực là một đặc tính của vật chất?" (17).
Nhiều nhà nghiên cứu đã áp dụng phân tâm học để tìm hiểu tâm lý của Darwin trong hơn hai mươi năm ròng im lặng. Phải chăng vì tâm lý bất ổn nên ông thường đau? Có lần ông nằm mơ bị treo cổ! Thức dậy, ông không thấy bị treo cổ nhưng lại thấy… treo giò. Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, trong giới khoa học, trong giới đại học, bao nhiêu giáo sư và nhà khoa học đã bị treo giò, đã bị mất chức, mất môn dạy, đã không được xuất bản, đã bị kiểm duyệt, vì có tư tưởng khác với thời đại. Darwin viết thầm trong Nhật Ký: "Để tránh khỏi phải nói rằng tôi đã trở thành duy vật đến thế, tôi phải nhẹ nhàng trong cách nói, chỉ nói rằng những cảm xúc, những bản năng, những mức độ tài năng, tất cả đều di truyền, bởi vì bộ não của đứa bé giống như bộ não của cha mẹ nó" (18). Ông viết trong thư gửi Karl Marx: Đừng tấn công trực tiếp Thiên chúa giáo làm gì, vô ích đối với quần chúng; "hãy làm giàu trí óc con người bằng tiến bộ của khoa học, chỉ nhờ thế tự do tư tưởng mới phát triển thêm. Và bởi vậy, tôi tránh nói đến tôn giáo, chỉ hạn chế vào khoa học" (19).
Thận trọng như thế cho nên ông chưa dám động đến con người trong "Nguồn cội …" khi sách xuất bản năm 1859. Ông còn chua thêm một câu ỡm ờ trong sách: "Ánh sáng sẽ rọi vào nguồn gốc của con người và của lịch sử nhân loại". Phải chờ thêm 12 năm nữa, cho đến 1871, khi không thể giấu mãi niềm tin chắc của mình, ông mới xuất bản tác phẩm "Thủy tổ của con người". Từ đó lại nổ ra thêm một tranh luận triết lý nữa, lần này trên vấn đề đạo đức: còn gì là "nhân cách" khi con người có thủy tổ là khỉ? Đây là luận cứ mà giới thần quyền ở Mỹ đập vào đầu dư luận từ nhiều năm nay để buộc chính quyền Mỹ đưa vào chương trình học thuyết sáng tạo nói theo Kinh thánh. Con khỉ! Nhục nhã thế! Ai muốn thủy tổ của mình là con bú dù? Chẳng lẽ Hằng Nga, Dương Quý Phi, Tây Thi là hậu duệ của các cụ đang bắt rận cho nhau?
Vấn đề không phải là muốn thế này hay thế kia. Lý luận kiểu đó chẳng có chút gì khoa học. Vả chăng, từ chối họ hàng với khỉ thì đâu có nhất thiết phải nhận mình là con thừa tự của một Đấng nào cao xa? Hãy nghe Darwin lý luận: một đứa bé sinh ra đã bị tật nguyền, điều đó là do Thượng đế muốn thế chăng, hay là do tác dụng của những luật phức tạp về di truyền, về bào thai, áp dụng vào một trường hợp cá thể? Vậy, nếu đứa bé đó chỉ là một cá thể lẻ loi giữa một dân số toàn cầu đông hàng tỷ người, tại sao không xem một loài sinh vật cũng như thế, cũng là một cá thể lẻ loi giữa muôn triệu sinh vật tiếp nối nhau sống trên trái đất, trải qua bao nhiêu thời kỳ địa chất? Tại sao loài Homo Sapiens lại phải được xem như là mục đích, như là một giá trị tiên thiên, trong khi con rắn, con rết có mặt trên trái đất lâu hơn thế, lại bị xem như là chẳng có gì để nói trong lịch sử vũ trụ? Cái gì, ngoài tính kiêu ngạo vô căn cứ của ta, cho phép ta vỗ ngực tự xưng là loài sinh vật được hưởng đặc ân trong hàng trăm triệu loài sinh vật được trái đất tiếp nhận trong lịch sử trường thiên của mình?
Trong một thư viết cho đồng nghiệp năm 1860, ông đặt câu hỏi: "Tôi thấy một con chim mà tôi muốn ăn thịt, tôi rút súng ra bắn, nó chết, tôi làm hành động đó có chủ đích. Một người kia, vô tội, đứng cạnh một gốc cây, bị sét đánh chết. Anh có tin chăng Thượng đế đã giết người đó có chủ đích? Nếu anh tin như thế, anh có tin thêm rằng, khi một con chim én hớp một con bọ, Thượng đế đã sắp đặt trước khiến con én ấy hớp con bọ kia đúng vào thời điểm đó? Về phần tôi, điều mà tôi tin là người ấy và con bọ kia đều ở trong cùng một hoàn cảnh. Nếu cái chết của người ấy và cái chết của con bọ kia đều không có định đoạt trước, tôi chẳng thấy lý do gì chính đáng để nghĩ rằng sự khai sinh hoặc sáng tạo đầu tiên của người kia và của con bọ ấy nhất thiết phải được định trước" (20).
Đừng gọi tên "khỉ" nữa mà cảm thấy nhục nhã; hãy gọi tên khoa học là Homo Sapiens: homo sapiens, nghĩ cho cùng thì cũng chỉ là một giống sinh vật đã tiến hóa giữa một Vũ Trụ bao la, không biết đâu là khởi thủy. Trước mắt khoa học, như thế là bình thường, có gì là thiếu đạo đức, có gì là mất nhân cách? Ngược lại, như thế mới hợp đạo đức, như thế mới là đạo đức đối với muôn loài mà con người cứ cho rằng Thượng đế đã sinh ra để phục vụ mình. Con thú cũng có đời sống tình cảm, mọi sự sống đều phải được tôn trọng ngang nhau: nếu con người mất nhân cách, chính là lúc hành hạ thú vật để tạo miếng ăn ngon cho mình.
Nhưng nếu không có Thượng đế, không có Ý Định gì trước trong tiến hóa của sinh vật, thì cái gì giải thích sự lựa chọn tự nhiên? Darwin trả lời: Tình cờ, Ngẫu nhiên.
Ngẫu
nhiên
Ông lý luận: "Tuy rằng một cơ quan có thể, lúc khởi thủy, không được tạo ra vì một mục đích rõ rệt, nhưng nếu trong hiện tại nó thực hiện cái chức năng ấy, ta có thể nói một cách đúng đắn rằng nó đã được đặc biệt tạo ra để làm việc đó. Cũng vậy, nếu một người chế tạo ra một cái máy trong một mục đích rõ rệt, nhưng đã dùng lại những cái lò xo cũ, được sửa đổi đôi chút, để làm chuyển động những bánh xe và ròng rọc cũng cũ, ta phải nói về cái máy đó rằng, trong toàn bộ, với tất cả những bộ phận đã làm thành ra nó, nó đã được chế tạo đặc biệt trong mục đích đã vạch ra. Bởi vậy, trong toàn thể thiên nhiên, hầu hết những cơ quan của mỗi sinh vật đều có thể dùng để đáp ứng, trong những điều kiện được sửa đổi đôi chút, nhiều mục đích khác nhau, và đều có vai trò trong guồng máy sống của nhiều hình thức cũ đặc thù, khác với những hình thức hiện hữu". Hãy xem ngón tay cái của con panda: xét về cơ thể học, cái đó đúng ra chẳng phải là "ngón tay cái" gì cả, bởi vì nó chẳng phải là ngón tay, nhưng nó đã được "tạo dựng" ra để dùng như một ngón tay cái từ một cái xương bàn tay, vì hậu quả của sự "chọn lọc tự nhiên". Thượng đế chẳng ăn nhậu gì trong việc sinh ra "ngón tay cái" này cả (21).
Ý tưởng nói trên đã được Darwin diễn giảng rộng ra từ khảo cứu của ông về cây lan. Lan là giống hoa vừa đực vừa cái; nếu chất đực và chất cái từ cùng một hoa phải yêu đương nhau để sinh con nở cái - nghĩa là nếu tự một hoa lan trong cùng một cây phải làm nhiệm vụ nối dõi tông đường - thì lan sẽ yếu giống, nhan sắc của hậu duệ có hiểm họa tàn phai. Bởi vậy, cây lan đã vận dụng đến nhiều môi giới khác nhau để truyền giống: gởi phấn cho ong bướm, bắn sâu bọ vào phấn hoa, buộc khách làng chơi phải tích tụ phấn hoa bằng những vuốt ve trong tận thâm cung bí ẩn. "Quan sát các loại lan, không có sự kiện nào đập vào mắt tôi bằng muôn vàn cấu trúc đã dùng để thực hiện cùng một mục đích: làm thụ thai một hoa bằng phấn của một hoa khác" (22).
Vô tận cách thức được áp dụng để thực hiện một mục đích là kết quả của ngẫu nhiên, thuần túy ngẫu nhiên. Chẳng có một chương trình gì của một Thượng đế nào đã sắp đặt trước. Trừ khi ta tưởng tượng có một ông Thượng đế thích gửi phấn cho hoa, gửi hương cho gió, gửi gió cho mây ngàn bay… Hay, như Darwin nói, một ông Thượng đế thích tạo ra nhiều hình thức khác nhau chỉ để thỏa mãn cái thích thấy muôn hình muôn vẻ, "như đồ chơi trong hiệu bán đồ chơỉ". Thượng đế như vậy thì đáng yêu quá, nhưng "quan niệm thiên nhiên theo kiểu đó thì quả là hết nước nói" (23).
Nếu thiên nhiên không biểu lộ ý muốn của Thượng đế, vậy thì thiên nhiên nói cái gì? Nếu Thượng đế vắng mặt trong thiên nhiên, cái gì trong thiên nhiên nói lên ý nghĩa của sự sống? Đặt câu hỏi như thế, đối với Darwin, đã là sai rồi. Bởi vì câu hỏi đó là câu hỏi của con người, khái niệm thiện ác lành dữ là từ cái đầu của con người mà ra, chứ thiên nhiên không biết đến. Thiên nhiên không biết bởi vì thiên nhiên là thiên nhiên. Thiên nhiên đã hiện hữu từ vô tận thời gian trước khi có con người, đâu cần biết con người sẽ sinh ra, vậy thì thiên nhiên cần quái gì con người? Thiên nhiên cứ bình thản như thế, khi lành khi dữ, không có luân lý đạo đức gì ráo. Đừng gán cho thiên nhiên những tình cảm, những mong đợi của chính mỗi chúng ta. Tình cảm đó là của chính ta, thiên nhiên không có tình cảm. Darwin thú nhận: lúc trẻ, ông cũng rờn rợn cảm giác tôn giáo, tưởng như có mặt Thượng đế khi choáng ngợp trước cảnh hùng vĩ của rừng rậm Brazil. "Nhưng bây giờ, những cảnh hùng vĩ nhất cũng không gợi lên trong tôi một niềm tin gì hay một tình cảm nào tương tự […] có liên hệ thâm sâu đến niềm tin Thượng đế" (24).
Niềm tin tôn giáo là của con người phóng vào thiên nhiên, tưởng rằng thiên nhiên có bản chất tốt, làm chứng cho sự thương xót của Thượng đế. "Nhưng, ông viết, tôi thú nhận rằng tôi không thấy rõ ràng như những người khác, cũng không thấy như tôi muốn, những dấu hiệu của một ý định tổng quát và của một lòng nhân từ độ lượng đối với chúng ta" (25). Ngược lại, ông thấy bao nhiêu đau khổ tràn ngập trần thế. Làm thế nào giải thích những sự kiện thiên nhiên tràn đầy đau khổ như vậy? Làm sao một Thượng đế nhân từ lại có cái ý muốn kỳ quặc, nham hiểm tạo ra con ong ichneumon đẻ trứng trong thân thể những con sâu bướm đang sống để bầu đoàn quý tử của nó, khi trứng nở ra, lúc nhúc xơi tái các vị chủ nhà rộng lượng kia từ ruột đến da? Tạo chi con mèo chơi trò tra tấn dã man con chuột trước khi đánh chén? Tạo chi đứa bé sinh ra đã bị khờ? Tiêu chuẩn đạo lý ở đâu, ông hỏi. Cắt nghĩa thế nào hai bộ mặt đó của thiên nhiên, bộ mặt hùng vĩ tuyệt vời của vũ trụ và bộ mặt tàn nhẫn hiểm ác tràn đầy trong sự sống?
Ông trả lời: "Tôi tưởng nên nghĩ rằng tất cả đều bắt nguồn từ những luật đã được tổ chức, nhưng về phần chi tiết tốt hay xấu thì thuộc về cái mà ta có thể gọi là ngẫu nhiên. Ý tưởng này chẳng làm tôi hài lòng chút nào. Tận đáy lòng, tôi cảm thấy tất cả câu hỏi đó quá sâu cho sự hiểu biết của con người. Chẳng khác gì hỏi con chó lý giải về trí óc của Newton" (26).
Nhà khoa học Stephen Jay Gould, mà các tác phẩm đã làm tôi say mê vì ông viết về khoa học mà cứ như là viết văn, đã trích dẫn một bài thơ của Robert Frost lấy hứng từ cái ý ngẫu nhiên đó của Darwin. Một buổi sáng tinh sương, trên đường đi dạo, nhà thơ bỗng thấy ba cái gì trắng trắng giăng trước mắt. Buổi sáng trong veo, ba cái gì trắng trắng trong veo, quang cảnh tinh khôi, trong veo, như lấp lánh ý lành của trời đất. Lại gần, nhà thơ thấy gì? Một con nhện trắng giăng tơ trắng trên một cuống hoa trắng và một con bướm trắng nằm gãy cánh trong tơ.
Hoa màu xanh, cái gì trong đêm đổi ra màu trắng?
Cái gì dẫn đường cho nhện trắng đến hoa
Rồi dẫn đường cho bướm đêm đến đó?
Cái gì? Ý định? Ý định gì nham hiểm
Cai trị gì trong chút phận cỏn con?
Tôi cũng muốn bắt chước nhà thơ đi vào những
chuyện vặt như thế. Cái gì dẫn đường cho nhện trắng đến hoa
Rồi dẫn đường cho bướm đêm đến đó?
Cái gì? Ý định? Ý định gì nham hiểm
Cai trị gì trong chút phận cỏn con?
Từ những
chuyện vặt
Vô duyên hết sức, chuyện vợ con tình ái là chuyện trước tiên mà tôi tò mò muốn biết mỗi khi chiêm nghiệm về cuộc đời của bất cứ ai, không chỉ của danh nhân. Cho nên tôi muốn biết ông lấy vợ như thế nào. Đúng là nhà khoa học! Tôi chưa thấy ai viết gãy gọn trên giấy trắng mực đen những loay hoay tính toán chi ly trong đầu về cái gì là lợi, cái gì là hại, của việc lấy vợ. Thói thường, tuy là đại sự, ai cũng phải đánh liều đưa chân nhắm mắt, không cả hai con thì cũng một. Ông thì không! Trên giấy trắng, ông tính toán, như người ta tính sổ ngân hàng, cột này là tiền vào, cột kia là tiền ra, đây là thu, đó là chi, này là được, nọ là mất, cột bên trái là lợi lộc nếu lấy vợ, cột bên phải là hư hao nếu không lấy. Hai trang giấy dày đặc. Trên trang đầu, nghiêm trang ngự trị một cái nhan đề: "Đây là vấn đề". That's the question! Y chang Hamlet: to be or not to be. Kết luận: To be! "Lấy vợ!" "Lấy vợ!" "Lấy vợ!" "Can đảm lên… Chẳng hề gì đâu… Hãy tin ở ngẫu nhiên… biết bao tên nô lệ đã sung sướng"!
Trang giấy hai cột đó, với những dòng chữ hào hùng kia, ông nguệch ngoạc vào năm 1837-1838. Ông lấy vợ ngày 29-1-1939. Vợ ông, Emma, năm đó 30 tuổi. Ở tuổi ấy, vào thế kỷ ấy, bà có cơ nguy khó tìm đôi lứa. Bởi vậy, mọi chuyện xảy đến đều nhanh. Ông bà biết nhau vì có quan hệ bà con rất gần. Quen thì quen vậy từ ba mươi năm, nhưng sôi sục thì chưa, cho nên bà không khỏi sửng sốt khi ông bất thần cầu hôn. Và khi bà nhận lời thì ông cũng giật mình.
Đọc chuyện vợ con ở đây, tò mò của tôi nhắm vào hướng khác. Tôi không thỏa mãn với giải thích của John Van Wyhe về im lặng của Darwin trong suốt 21 năm trước khi xuất bản tác phẩm "Nguồn cội…". Tuy Van Wyhe đã đưa ra những luận cứ rất thuyết phục, tôi vẫn nghĩ rằng, đối với một người đã đắn đo, cân nhắc chi ly ngay cả trong chuyện trăm năm, việc đắn đo cân nhắc trước khi công bố một tác phẩm động trời có thể hiểu được. Nhận định của tôi là chủ quan, riêng tư, tôi biết, nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ rằng trong suốt 21 năm, biết đâu mỗi ngày Darwin đều có nguệch ngoạc một trang giấy hai cột như vậy trong đầu để kết luận là not to be, khoan công bố. Biết đâu những trang giấy vô hình đó đã làm ông đau hoài đau mãi, đau những trận đau kỳ lạ, bác sĩ cũng không biết bệnh gì.
Trong những sách viết về Darwin, tôi thích cái nhan đề này của David Quammen: "The Reluctant Mr Darwin", ông Darwin lưỡng lự. Không phải Darwin lưỡng lự về niềm tin khoa học của ông. Ông tin chắc ở lý thuyết của ông, không lay chuyển. Nhưng ông không mù quáng về niềm tin khoa học, không tín điều, không cho rằng khoa học có thể giải thích tất cả. Ông không tin nữa ở Thượng đế, nhưng ông không báng bổ Thượng đế, Thượng đế có lĩnh vực vinh quang riêng của Ngài, miễn là đại diện của Ngài đừng xía vào lĩnh vực khoa học. Ai đọc Tự Truyện của ông đều nhặt ra được nhiều chi tiết cho phép tưởng tượng ra được một con người không hề cực đoan. Tôi cũng chỉ làm cái việc tưởng tượng ấy mà thôi. Tôi trích một chuyện vặt ông kể về thân phụ của ông, bác sĩ, nhưng lại rất sợ máu, sợ đến nỗi đã truyền cái sợ máu chảy ấy cho ông:
"Hồi trẻ, cha tôi có gia nhập hội Franc-Maçon. Một người bạn của cha tôi, cũng franc-maçon, giả vờ không biết cha tôi sợ máu, hỏi ông khi hai người cùng đi đến dự buổi lễ khai tâm: "Cậu đâu có ngán mất vài giọt máu phải không? " Hình như, trong buổi lễ gia nhập đoàn thể, người ta bịt mắt cha tôi và xắn tay áo của ông lên. Tôi không biết ngày nay một buổi lễ như vậy có còn diễn ra không, nhưng cha tôi nói về buổi lễ hôm ấy như một ví dụ tuyệt hảo về sức mạnh của tưởng tượng, bởi vì ông cảm thấy rõ ràng máu chảy dọc theo cánh tay của ông, và ông không tin ở mắt của ông sau đó khi ông không thấy dấu tích gì của một vết chích nào" (27).
Ai dám nói tâm lý không có ảnh hưởng gì trên vật chất? Tâm không có ảnh hưởng gì trên thân?
Một chuyện vặt khác nữa, cũng về thân phụ của ông. Ông viết về cha khá nhiều.
"Lúc cha tôi hãy còn rất trẻ, một hôm ông được gọi đến khám bệnh, cùng với một vị bác sĩ già của gia đình, tại một nhà quý phái, rất có tiếng. Vị bác sĩ già nói nhỏ với vợ người chủ nhà: bệnh ấy của chồng bà nặng lắm, chắc không qua khỏi. Cha tôi thì nghĩ trái lại và quả quyết là bệnh sẽ lành. Sau đó thì sự việc cho biết là cha tôi đã chẩn đoán sai và ông cũng công nhận là mình sai. Ông tin chắc là gia đình ấy sẽ không bao giờ mời ông khám bệnh nữa, vậy mà, vài tháng sau, bà góa phụ của người chủ nhà lại mời ông đến thay vì mời vị bác sĩ già của gia đình. Cha tôi ngạc nhiên đến độ phải đi hỏi người bạn của bà góa phụ tại sao ông lại được mời lần nữa. Bà góa phụ trả lời rằng bà không muốn thấy cái mặt của ông bác sĩ già đáng tởm kia nữa vì đã nói ngay từ đầu rằng chồng bà sẽ chết, còn bác sĩ Darwin thì quả quyết là sẽ chữa được" (28).
Thế thì con người có một bản tính tự nhiên chăng? Chưa hết. Cũng bản tính tự nhiên ấy nữa được kể tiếp:
"Trong một vụ khác, cha tôi quả quyết với một bà rằng chồng của bà sẽ chết thôi. Vài tháng sau, ông gặp lại bà ấy, đã thành quả phụ; bà nói với giọng chín chắn: "Ông đang còn rất trẻ, cho phép tôi khuyên ông: càng lâu chừng nào càng tốt chừng ấy, ông hãy luôn luôn ban hy vọng cho người săn sóc bệnh nhân. Ông đã làm tôi mất hy vọng, và từ đó đến nay, tôi mất hết sức lực" (29).
Con người có bản tính tự nhiên hay không là một vấn đề mà Darwin ngờ vực. Ông nói: lúc nhỏ, ông là một đứa bé giàu lòng thương người, nhưng đó là tính nết mà ông đã học được và đã bắt chước từ các bà chị của ông. Vậy mà, khi kể hai chuyện vặt nói trên về thân sinh của ông, ông kể như "đưa ra hình ảnh kỳ lạ của bản tính con người" (30). Con người đâu có phải chỉ là vật chất? Vật chất sao được, khi những chuyện ông kể về tâm lý buộc người đọc phải nghĩ về một Darwin khác, một Darwin biết suy nghĩ quân bình giữa sinh lý và tâm lý. Đây, chuyện vặt về tâm lý, cũng liên quan đến thân sinh của ông:
"Cha tôi thường kể cho tôi nghe những chuyện lặt vặt mà ông cho là có ích cho nghề y khoa của ông. Chẳng hạn, các bà hay khóc tức ta tức tưởi khi kể cho ông nghe bệnh của họ, khiến ông quá mất thì giờ. Ông để ý rằng, nếu ông bảo các bà ấy chận nước mắt lại, đừng khóc nữa, thì các bà càng khóc to hơn, cho nên lúc nào ông cũng khuyến khích các bà ấy khóc, nói rằng khóc cho nguôi đi. Kết quả là mười lần như chục, các bà ngưng khóc ngay" (31).
Chuyện vặt ấy, và nhiều chuyện vặt khác nữa về phụ nữ, khiến người đọc phải nghĩ: ô hay, không những con người có thể có bản tính, mà người phụ nữ cũng có bản tính đàn bà chăng?
Từ chuyện vặt bắt qua chuyện lớn, Darwin luôn luôn mực thước trong lý thuyết. Con người là tiến hóa từ loài khỉ chăng? Bao nhiêu nhà khoa học danh tiếng về thuyết tiến hóa đã loại con người ra khỏi tranh luận về thuyết ấy vì Kinh thánh đã dạy: Thượng đế đã tạo ra con người theo hình ảnh của Ngài. Ngay cả Wallace, đồng tác giả với Darwin, cũng chủ trương bộ não của con người là ngoại lệ. Ảnh hưởng của tôn giáo đè nặng trên tư tưởng phương Tây đến nỗi bao nhiêu nghiên cứu khoa học chỉ nhắm vào mỗi một việc là tìm cho ra một tiêu chuẩn chính xác để phân biệt về phẩm chất giữa người và giống khỉ chimpanzé và gorille. Nhưng cũng biết bao nhiêu nhà khoa học ngày nay chẳng nghi ngờ gì nữa về sự tiếp tục không ngừng giữa người và khỉ. Họ thấy chẳng làm hạ giá con người chút nào khi đặt con người vào lại Thiên Nhiên: ai dám bảo hình ảnh đó không hùng tráng bằng hình ảnh con của Thượng đế? Giữa cơn động đất về tư tưởng mà Darwin là nguyên nhân, ông đã nói gì thực sự? Rất thận trọng, ông viết một câu cực kỳ đơn giản trong lần xuất bản đầu tiên tác phẩm "Nguồn cội…": "Ánh sáng sẽ rọi vào nguồn gốc và lịch sử của con người". Trong những lần tái bản kế tiếp, ông chỉ thêm một chữ ở đầu câu: "Tất cả". Tất cả ánh sáng. Ánh sáng của ông chưa rọi đến!
Về nguồn gốc đầu tiên của con người, ông lý luận: lúc đầu, ông cũng tin có một Nguyên Nhân đầu tiên, do trí óc của con người nghĩ ra, nhưng càng nghiên cứu sinh vật, ông lại càng nghi ngờ khả năng đó của trí óc. Tại sao? Tại vì "trí óc của con người, mà tôi chắc chắn là đã phát triển từ một trí óc thô thiển không khác gì trí óc của một con vật thấp kém nhất, trí óc ấy có đáng cho ta tin cậy được chăng khi nó nghĩ ra một kết luận về ý nghĩa ghê gớm như vậy? Kết luận ấy phải chăng chỉ là kết quả của một liên hệ nhân quả mà ta cho là cần thiết, nhưng rất có thể tùy thuộc vào một kinh nghiệm được thừa kế? Phải chăng ta đã xem quá nhẹ khả năng của giáo dục, giáo dục ấy đã gieo vào đầu trẻ em lòng tin Thượng đế và có thể đã tạo ra một hậu quả phi thường có tính di truyền trên những bộ não hãy còn non nớt? Giải phóng những bộ não ấy ra khỏi lòng tin Thượng đế khó chẳng khác gì giải phóng con khỉ ra khỏi mối sợ hãi bản năng trước con rắn" (32).
Tuy vậy, tuy tin chắc chắn vậy, ông vẫn giữ một thái độ khoa học khiêm tốn và thú nhận: "Tôi không có ý rọi một tia sáng gì vào những vấn đề mờ mịt như thế. Bí mât về khởi thủy của vạn vật chưa dò tới được" (33).
Ngay cả lý thuyết về cạnh tranh sinh tồn, nòng cốt như thế trong khám phá của ông, ông vẫn không xem đó là giải thích duy nhất, là tín điều, về biến đổi. Ông thừa nhận các yếu tố khác nữa, như sự di truyền của tính nết đã hấp thụ, như việc sử dụng hay không sử dụng các bộ phận của cơ thể trong tiến hóa. Ông không khép lại cánh cửa của những khám phá khác trong tương lai, ông mở ra, mời đón. Bởi vì, ông nói, ông "luôn luôn cố gắng giữ trí óc tự do để có thể từ bỏ một giả thuyết, dù hấp dẫn, nếu sự kiện phản kháng lại" (34). Trong suốt 21 năm im lặng trước khi xuất bản "Nguồn cội…", ông đã âm thầm thu thập thêm bao nhiêu sự kiện nữa để chắc chắn rằng lý thuyết mình đưa ra đủ sức thuyết phục. Nhưng điều đáng ghi nhận hơn nữa là ông đã bày tỏ những ngờ vực của mình một cách thẳng thắn như bày tỏ những xác quyết. Mỗi tác phẩm mà ông đã lần lượt xuất bản đều đánh dấu một chặng đường đưa đến một hiểu biết mới. Ông luôn luôn khai phóng, chưa bao giờ chấp chặt, co quắp trong tín điều (35).
Trong một thư gửi bạn năm 1869, ông viết: "Giá như tôi được sống thêm 20 năm nữa và còn khả năng làm việc, tôi sẽ còn thay đổi "Nguồn cội…" biết bao nhiêu nữa, và biết bao nhiêu nữa ý nghĩ của tôi về mỗi điểm sẽ đổi khác! Nhưng thôi, đây là bước đầu, mà như thế cũng đã được rồi…" (36). Vừa xác quyết chân lý, vừa gạt bỏ tín điều: một câu thư riêng thôi, nhưng chân chính bao nhiêu thái độ khoa học.
Tôi thích bình luận của Stephen Jay Gould về thái độ khiêm tốn và thông thoáng ấy của Darwin. "Thiên nhiên, Gould viết, phức tạp và phong phú đến nỗi cái gì cũng có thể xảy ra. Một giải thích tổng quát, rõ ràng và tối hậu về những vấn đề của sự sống là không thể có được. Ta có thể tìm được câu trả lời hợp lý cho những vấn đề quan trọng bậc trung. Nhưng đối với những vấn đề tối hậu, câu trả lời ngã quỵ trước thiên nhiên quá giàu có. Vậy mà vui! Một thiên nhiên hãy còn giữ bí mật mới đem lại bao nhiêu thích thú cho cuộc sống, mới đem lại bao nhiêu hứng khởi cho những bước chân tìm tòi lần mò" (37).
Hãy để cho các nhà thần giáo co rúm với cái chìa khóa trong tay họ, miễn là họ đừng bắt cả thiên hạ đều phải chui vào cùng một cánh cửa. Riêng tôi, đứng trước ngưỡng cửa khoa học của Darwin, tôi chỉ muốn hỏi thêm ông một câu hỏi nhỏ của người đọc Tự Truyện của ông.
Ở trang 70, ông kể về khởi thủy của chuyến đi khảo cứu trên tàu Beagle năm 1831, ông viết: thuyền trưởng FitzRoy "suýt nữa từ chối, không cho tôi đi, vì hình dáng của cái mũi của tôi". Thạo nghề xem tướng, FitzRoy ngờ rằng với một cái mũi có hình dáng như vậy, chủ nhân của nó không thể là người có đủ năng lực và quyết tâm để làm một cuộc phiêu du 5 năm ròng rã. Tôi muốn hỏi: giá như viên thuyền trưởng tin chắc ở tài xem tướng của mình và hành động theo đúng như vậy, Darwin có trở thành Darwin và khoa học có chăng một Darwin để thế giới kỷ niệm 200 năm? Vậy cái gì làm Darwin trở thành Darwin? Sự thiếu tin tưởng của viên thuyền trưởng về tài xem tướng? Thượng đế muốn ông đi để chứng minh ngài không có? Hay ngẫu nhiên?
Tôi xếp Tự Truyện của Darwin, nhưng tấm ảnh của ông trên bìa cứ bắt tôi phải nhìn cái mũi. Tôi thấy nó cựa quậy như muốn nói với tôi: làm gì có một nguyên nhân duy nhất cho mỗi sự việc? Sự việc nào lại không có trùng trùng nguyên nhân! Nói gì nguyên nhân đầu tiên!
Cao Huy Thuần
Giáo sư
emeritus Đại Học Picardie (Pháp)
Chú thích
2. David Quammen, The Reluctant Mr Darwin, Great Discoveries Series, Atlas Books, W.W. Norton & Company, New York-London, 2006, trang 15.
3. Charles Darwin, L'Autobiographie, Seuil, 2008, trang 26.
4. Như trên, trang 55.
5. Như trên, trang 56.
6. Sách của William Paley là: Natural Theology; or Evidences of the Existence and Attributes of the Deity collected from the Appearances of Nature, 1802, và Moral and Political Philosophy, 1785.
7. Lecourt, trang 44.
8. L'Autobiographie, trang 81.
9. Như trên, trang 83.
10. Stephen Jay Gould, Darwin et les grandes énigmes de la vie, Pygmalion, 1979, trang 11.
11. Quammen, trang 207.
12. L'Autobiographie, trang 151.
13. Quammen, trang 198.
14. John Van Wyhe, Mind the Gap: Did Darwin Avoid Publishing His Theory For Many Years? Notes and Records of the Royal Society (doi:10.1098/rsnr.2006.0171;2007).
15. L'Autobiographie, trang 231.
16. Như trên, trang 83.
17. Gould, Darwin et les grandes énigmes de la vie, trang 22.
18. Như trên, trang 24.
19. Như trên, trang 24.
20. Stephen Jay Gould, Et Dieu dit: "Que Darwin soit!", Seuil, 2000, trang 185-186.
21. Stephen Jay Gould, Le pouce du panda, trích bởi D. Lecourt, trang 49.
22. http://bibliobs.nouvelobs.com/blog/darwin/20090319/11380/darwin-1872-larme-fatale-contre-les-creationnistes
23. Cũng vậy
24. L'Autobiographie, trang 87.
25. Gould, Et Dieu dit…, trang 181.
26. Như trên, trang 46.
27. L'Autobiographie, trang 31.
28. Như trên, trang 38.
29. Như trên.
30. Như trên, trang 37.
31. Như trên..
32. Như trên, trang 89.
33. Như trên.
34. Như trên, trang 132.
35. Xem bài Tựa của Nora Barlow trong L'Autobiographie.
36. Thư gửi J.D. Hooker đăng trong bài Tựa của Barlow.
37. Gould, Darwin et les grandes énigmes de la vie, trang 279.