Đây là tác phẩm thuộc loại
thi ca hầu như là duy nhất đã được nhập Tạng (ĐTK/ĐCTT, tập 48, No 2014,
1 quyển), chứng tỏ tác phẩm, ngoài giá trị văn học còn có những giá trị lớn về
Thiền học. Chứng đạo ca đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ở
Việt Nam, trước 1975 có bản Việt dịch - giới thiệu của Trúc Thiên (Chứng đạo
ca, NXB.Lá Bối, S, 1970) và gần đây là bản Việt dịch của Lý Việt Dũng - nằm
trong quyển 30 của bộ Cảnh Đức truyền đăng lục đã được Việt
dịch(2). Bài viết này, chúng tôi xin nêu một vài ghi nhận tổng quát
về tác phẩm ấy cùng một số liên hệ từ hai bản Việt dịch kể trên.
Đại sư Huyền Giác (665-713) họ Đới, người xứ Vĩnh Gia, Ôn Châu
(thuộc Chiết Giang), 8 tuổi xuất gia, đọc khắp 3 Tạng, chuyên tu thiền quán
từng tham bái Lục tổ Tuệ Năng (638-713). Trứ thuật có: Chứng đạo ca,
Thiền tông ngộ tu viên chỉ, Vĩnh gia tập. Cũng như Chứng đạo ca, Thiền
tông ngộ tu viên chỉ cũng được nhập Tạng (ĐTK/ĐCTT, tập 48, No 2013,
1 quyển). Tác phẩm Chứng đạo ca được viết theo thể thất ngôn
(câu 7 chữ), thỉnh thoảng xen vào câu 6 chữ (đều phân làm 2 vế, mỗi vế 3 chữ),
tổng cộng tất cả là 267 câu (kể luôn câu mở đầu có 3 chữ). Như thế tức: 1 câu 3
chữ, 52 câu 6 chữ, 214 câu 7 chữ tổng cộng là 267 câu. Trúc Thiên trong bản
Việt dịch của mình (NXB.Lá Bối, S, 1970, tr.69) vì không tính câu mở đầu, nên
ghi là 266 câu, phân làm 56 đoạn. Bản Việt dịch của Lý Việt Dũng, trong Cảnh
Đức truyền đăng lục (quyển 30, Sđd, tr.788-797) thì phân làm 60 đoạn. Phật
Quang đại từ điển (tr.2015B) thì ghi: Hoặc 4 câu, hoặc 6 câu là 1 giải
(đoạn) cộng phân là 51 đoạn. Bản Việt dịch của Lý Việt Dũng tất nhiên là căn cứ
theo nguyên bản chữ Hán trong Cảnh Đức truyền đăng lục, so với bản
chữ Hán được Trúc Thiên chép ra nơi sách kia (Sđd, tr.93-104. Không ghi rõ là
chép theo sách nào) đại thể là như nhau, chỉ có một vài chữ chép khác nhưng
nghĩa không khác mấy. Song có một chữ nơi câu thứ 91 (kể luôn câu đầu), bản của
Trúc Thiên chép:闃寂安居實蕭灑 (Sđd,
tr.96). Phiên âm: Quých tịch an cư thực tiêu sái, Sđd, tr.114) và dịch: Cảnh
lặng lòng yên thanh thoát lạ, Sđd, tr.115). Bản của Lý Việt Dũng chép: (Chữ
đầu tiên gồm bộ 門, bên
trong là chữữ 具, do
hạn chế của font máy tính nên không nhập vào văn bản được, nv), và
sau đó tiếp tục là 寂安居實蕭灑, phiên
âm:... Tịch an cư thật tiêu sái (Sđd, tr.782. Tức bỏ trống chữ đầu câu) và dịch:
Lặng lẽ ở yên tiêu sái quá (Sđd, tr.791). Hai chữ 闃 và chữ gồm bộ 門, bên trong là chữữ 具, chúng tôi tra nơi Tân tu Khang Hy tự
điển (Khải Nghiệp thư cục ấn hành, Đài Bắc, 1998, 2 tập), không có chữ
vừa dẫn, mà chỉ có chữ 闃
(tr.2079B, tập hạ) và giải thích: * Âm: Đường vận: Khổ khích thiết, đọc là
khích, tập vận: Cầu Hoạch thiết, âm là khích. * Nghĩa: Vắng lặng không người.
Tra nơi Hán ngữ đại tự điển (Kiến Hoành xuất bản xã, Đài Bắc,
1998) thì có cả 2 chữ cùng mang nghĩa như nhau. Nơi chữ 闃 (tr.1792, cột 2) giải thích: * Âm: Quảng vận:
Khổ kích thiết, đọc là khích. * Nghĩa: Nơi chốn tịch tĩnh. Vậy chữ 闃 hay chữ gồm bộ 門, bên trong là chữữ 具 nên đọc là khích. (Khích tịch an cư thật tiêu
sái).