Ni sư Ayya Khema
Diệu Liên - Lý Thu Linh dịch
Nguồn: Vô ngã Vô ưu
Người
hằng mong thanh tịnh:
Nên thể hiện pháp lành,
Có khả năng, chất phác,
Hiền hòa, không kiêu mạn,
Sống dễ dàng, tri túc,
Thanh đạm không rộn ràng,
Lục căn luôn trong sáng,
Trí tuệ càng hiển minh,
Chuyên cần, không quyến niệm,
Không làm điều ác nhỏ,
Mà bậc trí hiền chê,
Nguyện thái bình an lạc,
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc,
Chúng sinh dù yếu mạnh,
Lớn nhỏ hoặc trung bình,
Thấp cao không đồng đẳng,
Hết thảy chúng hữu tình,
Lòng từ không phân biệt,
Hữu hình hoặc vô hình.
Đã sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết.
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc.
Đừng lừa đảo lẫn nhau,
Chớ bất mãn điều gì,
Đừng mong ai đau khổ,
Vì tâm niệm sân si,
Hoặc vì nuôi oán tưởng.
Hãy mở rộng tình thương,
Hy sinh như từ mẫu,
Suốt đời lo che chở,
Đứa con một của mình,
Hãy phát tâm vô lượng,
Đến tất cả sinh linh,
Từ Bi gieo cùng khắp,
Cả thế gian khổ hải,
Trên dưới và quanh mình,
Không hẹp hòi oan trái,
Không hờn giận căm thù,
Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
Bao giờ còn thức tĩnh,
Giữ niệm từ bi nầy,
Thân tâm thường thanh tịnh,
Phạm hạnh chính là đây.
Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm trì,
Đạt Chánh trí viên mãn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử.
-- Lời Đức Phật dạy (Kinh Nipata)
(Nguồn: Nghi Thức Tụng Niệm, Chùa Đạo Quang, TX USA)
Nên thể hiện pháp lành,
Có khả năng, chất phác,
Hiền hòa, không kiêu mạn,
Sống dễ dàng, tri túc,
Thanh đạm không rộn ràng,
Lục căn luôn trong sáng,
Trí tuệ càng hiển minh,
Chuyên cần, không quyến niệm,
Không làm điều ác nhỏ,
Mà bậc trí hiền chê,
Nguyện thái bình an lạc,
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc,
Chúng sinh dù yếu mạnh,
Lớn nhỏ hoặc trung bình,
Thấp cao không đồng đẳng,
Hết thảy chúng hữu tình,
Lòng từ không phân biệt,
Hữu hình hoặc vô hình.
Đã sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết.
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc.
Đừng lừa đảo lẫn nhau,
Chớ bất mãn điều gì,
Đừng mong ai đau khổ,
Vì tâm niệm sân si,
Hoặc vì nuôi oán tưởng.
Hãy mở rộng tình thương,
Hy sinh như từ mẫu,
Suốt đời lo che chở,
Đứa con một của mình,
Hãy phát tâm vô lượng,
Đến tất cả sinh linh,
Từ Bi gieo cùng khắp,
Cả thế gian khổ hải,
Trên dưới và quanh mình,
Không hẹp hòi oan trái,
Không hờn giận căm thù,
Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
Bao giờ còn thức tĩnh,
Giữ niệm từ bi nầy,
Thân tâm thường thanh tịnh,
Phạm hạnh chính là đây.
Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm trì,
Đạt Chánh trí viên mãn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử.
-- Lời Đức Phật dạy (Kinh Nipata)
(Nguồn: Nghi Thức Tụng Niệm, Chùa Đạo Quang, TX USA)
Nếu chúng
ta đứng quá gần một tấm kính, ta sẽ không thể thấy gì. Mà xa quá thì cũng thế.
Chúng ta cần đứng một khoảng cách vừa phải thì mới có thể nhìn thấy rõ.
Kinh Từ
Bi quá quen thuộc đối với đa số chúng ta. Chúng ta hiểu nghĩa kinh khuyên nhủ
ta nên thương yêu tất cả mọi người. Điều đó rất đúng. Nhất là đối với những
người gây khó khăn cho ta, những người không theo ý ta, không như ta mong đợi.
Vậy ta hãy bước gần lại với Kinh Từ Bi, nếu ta đang đứng quá xa, hay lùi lại
vài bước nếu ta chỉ biết thuộc kinh, để hiểu thật sự những lời kinh nói gì, có
ý nghĩa gì.
Kinh bắt
đầu với: Người hằng mong thanh tịnh, nên thể hiện phép lành... Đó là một
lời nói khá thú vị vì nó diễn tả tính hoàn thiện như một kỹ năng, và kỹ năng có
thể được rèn luyện, học tập. Tất cả chúng ta đều có những kỹ năng do rèn luyện
mà có được. Nói là một kỹ năng. Đi đứng cũng thế. Chúng ta đã luyện tập những
kỹ năng nầy khi còn bé, và sau bao nhiêu năm, giờ chúng ta đã trở nên quá thuần
thục. Việc hành thiền cũng là một kỹ năng có thể được học tập, rèn luyện, và
trong thực tế thiền đang được người ta học tập, rèn luyện. Lái xe, giặt ủi cũng
là kỹ năng. Chúng ta học tập các kỹ năng nầy trong các cộng việc hằng ngày ở
nhà.
Thiện
tánh được rèn luyện qua giáo dục, môi trường, nhưng nó sẽ chẳng thể hoàn toàn
nếu như chúng ta không cố gắng thực hành. Nó không phải tự nhiên mà có. Tất cả
chúng sanh đều có căn tánh thiện, nếu không chúng ta đã không có mặt ở nơi nầy.
Do nghiệp lành mà ta có mặt nơi đây, nhưng chúng ta cũng mang đầy các nghiệp
chướng. Đức Phật trong Tâm kinh đã hướng dẫn đầy đủ các cách để viên mãn thiện căn
trong ta. Đó là một phẩm kinh ngắn, mở đầu với những lời giáo huấn cơ bản trong
cuộc sống đời thường, dẩn đến hoàn toàn giải thoát giác ngộ. Đây là bài thuyết
pháp có nhiều cấp độ. Các bài Pháp của Đức Phật thường là như thế; ai cũng có
thể lắng nghe, dầu là những người sơ cơ hay đã huân tập lâu ngày, đều có thể
tìm thấy sự lợi ích. Tất cả chúng sanh, những ai có thể nghe và lãnh hội được,
có thể áp dụng bài kinh để đi từ cuộc sống thế tục dần tiến lên cõi thanh cao.
Đức Phật
nói lời thuyết pháp của Ngài tựa như biển cả. Lúc đầu khi ta còn ở gần bờ, thì
biển cạn. Có thể chỉ làm ướt chân ta. Khi ta tiến sâu hơn ra xa, biển trở nên
sâu hơn, sâu hơn nữa để dần trùm phủ ta trong lòng biển. Giáo lý của Đức Phật
cũng thế. Chúng ta bắt đầu bằng cách nhún chân, thăm dò nước biển ấm lạnh. Như
khi ta thử hành thiền nữa ngày, rồi dăm ba ngày, cho đến khi cuối cùng ta có đủ
can đảm để dự khóa tu thiền mười ngày và có thể hành thiền suốt thời gian ấy.
Chúng ta học Phật pháp cũng thế, từng chút từng chút, cho đến khi cả cuộc sống
của ta đều là sống trong pháp.
Và rõ
ràng sự bình an không phải do ai ban tặng cho ta. Chính ta phải tìm lấy. Không
thể có bình an chỉ vì ta mong mỏi hay ước muốn điều đó. Mà chúng ta phải nỗ lực
tìm kiếm. Không thể đạt được điều gì nếu không có sự nỗ lực.
Tiếp theo
Đức Phật cho biết ta cần có những đức tính gì để có thể viên mãn thiện tánh,
đạt đến giải thoát. Có hai điều căn bản quan trọng nhất trong bài pháp nầy, đó
là cách ta giao tiếp với người. Trước hết ta phải tự sửa đổi chính bản thân. Không
ích lợi gì khi chúng ta chỉ nói, hay nghĩ: "Từ bi, từ bi" nhưng không
làm gì để tự thanh lọc bản thân.
Đức Phật
bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi
đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại trên thế giới.
Những đức tính nầy được kể ra: Ta cần có khả năng, không phải phụ thuộc
vào người khác, chỉ dựa vào chính bản thân. Tự lực sẽ khiến ta có lòng tự tin;
lòng tự tin lại khiến ta cảm thấy tự tại. Khi chính ta cảm thấy tự tại, ta mới
có thể mở lòng thương yêu người khác. Ngược lại khi ta còn phải phụ thuộc vào
kẻ khác, còn phải nhờ vào sự giúp đở, hỗ trợ, nhờ vào lòng tốt của người khác
để có thể sinh tồn hay hoàn thành các công việc hằng ngày, thì chúng ta luôn sợ
hãi rằng họ sẽ bỏ rơi ta. Sự sợ hãi, âu lo không thể mang đến cho tâm sự bình
an. Tất cả chúng ta đều phụ thuộc lẫn nhau, nhưng lòng sợ hãi bị bỏ rơi hay
không có khả năng để tự chăm sóc là một vấn đề hoàn toàn khác. Sự sợ hãi quá
đáng có thể khiến ta phải tuân phục theo bất cứ điều kiện nào để nắm giữ cái ta
đang có, do thiếu lòng tự tin. Như thế làm sao có thể tự tại.
Cần sự
chất phác... Người
chất phác không chỉ nói lời chân thật, là điều căn bản, mà cũng không tìm cách
lợi dụng người hay tạo điều kiện để thủ lợi cho cá nhân. Chất phác là hoàn toàn
chân thật, chỉ nói những điều dựa vào sự hiểu biết của mình, chứ không phải để
làm vừa lòng người khác. Chất phác có nghĩa là chúng ta coi trọng sự thật. Giáo
lý Đức Phật đặt trọng tâm ở “bốn chân lý diệu nghiệm”. Nếu chúng ta tự biết mình
có tánh chất phác, trong sạch, ta sẽ không bao giờ xa rời các cảm xúc, hiểu
biết của mình. Chúng ta biết mình chân thật với chính mình. Nếu không như thế,
ta sẽ không bao giờ có được tâm bình an.
Kế tiếp
ta phải thẳng thắng... có nghĩa là trung thực, không quanh co, không tô
vẽ, không dua nịnh. Người như thế cần có tâm chân thật. Không có tâm chân thật
thì khó có thể là người trung thực. Đó là một khả năng, cần được trao dồi bằng
chánh niệm trong thiền định. Với người thẳng thắng, ta thấy dễ giao tiếp. Vì ta
biết rằng họ chỉ nói những điều họ thật sự nghĩ. Chúng ta không phải thắc mắc,
"Không biết họ có thực sự nghĩ vậy không? Không biết nói thế, họ có ý
gì?" Trái lại, ta có thể tin tưởng họ. Với những người đáng tin cậy, ta sẽ
có được sự liên hệ tốt đẹp. Nếu tất cả mọi người đều có thể tin cậy lẫn nhau,
thì liên hệ giữa con người sẽ dễ dàng, bớt phức tạp biết bao nhiêu.
Không
kiêu ngạọ... Một
thành ngữ tiếng Anh có nói "Kiêu ngạọ đứng trước Thất bại”. Kiêu ngạo là
sự tập trung vào cái ngã một cách vô lý, dầu đó là kiêu ngạo về địa vị, sở hữu,
sự thành đạt hay vẻ dáng bề ngoài. Tất cả chỉ để tôn vinh cái ngã. Hay hơn thế
nữa. Lòng kiêu ngạo khiến ta có cảm giác mình hơn người, khiến ta lạnh lùng với
người.
Có câu
chuyện về một người Bà la môn ở vào thời Đức Phật còn tại thế. Ông ta được đặt
biệt hiệu là Cứng Cỗ (Pridestiff) vì không bao giờ chịu đảnh lễ một ai. Dầu cho
người đó là các đấng ông ta hằng thờ phụng, hay là các sư phụ của mình. Ong ta
cũng không bao giờ đến nghe Đức Phật giảng Pháp. Nhưng một ngày, trước sự kinh
ngạc của mọi người ông ta đã xuất hiện. Ong ta lắng nghe Đức Phật thuyết pháp,
và khi Đức Phật chấm dứt bài pháp, ông đến đảnh lễ Đức Phật. Cả hội chúng đều
phải kêu ồ lên. Tuy nhiên ông ta có giao ước với Đức Phật. Ong nói rằng sau khi
được nghe bài thuyết pháp của Đức Phật, ông rất muốn được trở thành đệ tử của
Ngài, nhưng ông không muốn đánh mất biệt hiệu của mình. Cho nên sau nầy nếu có
gặp Đức Phật ở nơi công cộng, Đức Phật có chấp nhận cho ông chỉ ngã mũ chào,
thay vì phải quỳ đảnh lể theo đúng phép tắc? Đức Phật đã chấp nhận lời đề nghị
đó. Vì thế ông ta đã giữ biệt hiệu ‘Cứng Cổ’ cho đến ngày cuối đời.
"Cứng
nhắc vì Tự Ái" là cách chúng ta thường nói. Sự cứng nhắc cho thấy người đó
không có khả năng chấp nhận những tư tưởng mới, những cái nhìn mới. Tự ái là
một quan điểm, và bất cứ điều gì mới mẻ đều có thể làm cho cái nền tảng mà lòng
kiêu ngạo được đặt trên đó bị lung lay. Rất khó cho người tự ái học hỏi một
điều gì mới. Người đó rất thường nói, "Tôi biết rồi" trong lúc thực
sự không biết gì hết.
Sống dễ
dàng ... khiến
người khác dễ giao tiếp, chuyện trò. Không hay giận dữ, nổi nóng vì những điều
nhỏ nhặt, thường để ý đến điều người khác nói, có khả năng lắng nghe. Biết lắng
nghe là một nghệ thuật, mà đa số chúng ta chưa phát triển được. Sống dễ dàng,
dễ giao tiếp khiến phát sinh những mối quan hệ tốt với người. Người khác cảm
thấy được cảm thông, được lắng nghe, không bị chỉ trích, được giúp đở.
Tuy
nhiên, "dễ giao tiếp" không có nghĩa là hay nói chuyện phiếm, hay nói
để mà nói. Mà đó là người đáng để chúng ta trò chuyện, người đầy lòng thương
yêu với mọi người. Không có lòng thương yêu, thì khó thể khiến người muốn đến
gần ta, vì ta đang mãi lo nghĩ về bản thân hơn là nghĩ về ai khác.
Trước khi
nói đến thương yêu tha nhân, ta cần phải hội đủ những tính chất trên. Bài kinh
đã không nhắc đến lòng từ bi, tình thương cho đến khi tất cả những điều kiện
khác đã được nói rõ.
Đức Phật
đã dùng một ẩn dụ để nói về những loại người khác nhau. Đức Phật đã so sánh
những người lắng nghe Ngài với bốn loại nồi khác nhau. Loại thứ nhất bị lủng ở
đáy. Khi người ta chế nước vào, nước lập tức bị chảy ra. Những người vừa nghe
thấu tai nầy đã ra tai kia. Loại thứ hai có vết rạn. Khi đổ nước vào, nước cũng
dần dần thấm ra ngoài. Loại người nầy khi rời khỏi chỗ ngồi, ra đến cửa là đã
quên ngay. Loại thứ ba là loại đã đầy đến tận miệng. Đây là những người luôn
nói "Tôi biết, tôi hiểu rồi". Những người nầy hoặc là không lắng
nghe, hoặc những điều họ nghe thấy chẳng có ảnh hưởng gì. Ta có thể chế thêm
bất cứ gì, nhưng họ đã đầy những quan điểm riêng, những hiểu biết riêng của họ.
Cuối cùng là loại nồi không thủng đáy, không có vết nứt, hoàn toàn trống rỗng.
Ta có thể chế nước sạch, nước trong vào, nó sẽ giữ nước mãi sạch trong như thế
để cho mọi người cùng uống.
Điều kiện
kế tiếp là hiền hòa... Hiền hoà đối nghịch với sấn sổ, lấn lướt. người
độ lượng đã phát triển được tâm đến độ thấy được lỗi mình hơn là thấy lỗi nu.
Tự thấy được lỗi mình rất lợi ích cho ta, vì ta có thể tự sữa đổi. Trái lại
thấy lỗi người không ích lợi gì. Chỉ khiến ta thấy không ưa người khác. Rồi từ
không ưa, dẫn đến không thân thiện, cãi vả, trang luận, thuyếp phục, tất cả đều
vô ích. người độ lượng hay tự soi rọi mình với tâm đầy chánh niệm.
Thanh đạm
... Người
thanh đạm, tự tại là người thanh thản. Do đó ta cần phải biết bằng lòng với
hoàn cảnh, môi trường sống, tiền bạc, vẻ bề ngoài, hay sự hiểu biết của ta.
Không có nghĩa là ta trở nên dễ dãi. Tự tại và dễ dãi không phải là một thứ.
Sự dễ dãi
khiến ta nói: "Tôi đã làm tất cả khả năng rồi. Tôi yên ổn rồi. Không phàn
nàn gì hết". Trái lại, sự tự tại là "Những gì xảy ra cũng là điều
kiện giúp tôi tiến bộ". Sự tự tại rất cần cho hoà bình. Vì sự phật lòng,
trái ý khiến tâm cũng như thế giới trở nên đảo lộn. Khi không vừa lòng, ta dễ
làm những việc kỳ cục nhất để thay đổi những gì ta nghĩ là nguyên nhân. Chúng
ta tranh cãi, cố thay đổi những người sống quanh ta, thế giới ta đang sống,
tranh cãi về các món ăn, về quan niệm, đôi khi cả tôn giáo. Tại sao tất cả
những việc nầy lại xảy ra? Vì ta không tự tại, không vừa lòng. Tất cả các hành
động trên đều không mang đến sự tự tại. Chỉ có một cách khiến ta được tự tại
vừa lòng là hãy tự sửa đổi mình. Là điều không thể thực hiện được khi không có
tự tại. Mà chỉ có thể được thực hiện với lòng kiển nhẫn, cố gắng và một ít trí
tuệ. Không có trí tuệ sẽ không có gì xảy ra cả.
Tri túc
... Tri túc
có nghĩa là chúng ta không có nhiều tham cầu cá nhân; không phải vì chúng ta đè
nén chúng, mà là vì ta nhận thấy chúng không đem đến cho ta hạnh phúc. Chúng ta
không chạy đuổi theo đủ kiểu áo quần mới, đủ kiểu bàn ghế, ăn uống hay những
thứ vật chất khàc. Nhở thế ta được tự tại vì ta biết bằng lòng với những gì
mình đang có. Chúng ta hiểu rằng dầu ta có mua sắm, sở hữu bất cứ thứ gì, rồi
chúng cũng trở thành cũ, rách, để rồi cuối cùng ta cũng phải vứt bỏ chúng đi,
mà ta lại phải khổ sở chạy đuổi theo chúng, khiến ta không được tự tại. Dĩ
nhiên ta cần có những thứ cơ bản cho cuộc sống của ta được thoải mái, nhưng ta
không cần những thứ ấy trong đủ kiểu dáng, màu sắc, kích cở khác nhau mới có
thể sống thoải mái.
Ham muốn
thì khổ đau vì nó chứng tỏ là người ta còn thấy thiếu thốn. Nếu chúng ta là
người tri túc, biết đủ, ta sẽ buông bỏ được lòng ham muốn vì ta muốn xả phiền
não, khổ đau. Nếu ta có được điều mình ước muốn, có thể ta sẽ thấy vui sướng
trong chốc lát; nhưng nếu ta không đạt được ý nguyện, thì ta cảm thấy khổ đau,
rồi sau đó ta lại khởi lòng ham muốn trở lại. Một vòng luẩn quẩn trong khổ đau,
chẳng bao giờ dẫn ta đến được thanh tịnh. Trước khi hiểu được thế nào là lòng
từ bi, tình thương yêu chân thật, ta cần phải buông bớt tham cầu, để cái ngã
của ta không còn chiếm lĩnh mọi suy tư của ta.
Không rộn
ràng, không bị nhấn chìm trong lo toan... Nếu chúng ta không có thời gian để quay vào bên trong, tự vấn
lòng, chúng ta sẽ khó thay đổi được gì. Nếu ta hết tham gia họp hành, lại viếng
thăm hàng xóm, bà con, nếu chúng ta tự tạo ra sự bận rộn, lăng xăng quanh mình,
không tự để ta có được giây phút nào tự suy gẫm, thiền quán, thì ta sẽ không có
được sự bình an. Chúng ta cần thời gian để tạo ra một môi trường lành mạnh,
bình an quanh ta cũng như trong ta.
Biết cần
kiệm cũng là một trong muôn cách... Cần kiệm là một đức tính. Nó chứng tỏ lòng trân trọng đối với
những gì đã được tạo ra bằng sức lao động, công khó nhọc của người khác; ta
không vứt bỏ đi sản phẩm của họ khi chúng bắt đầu hao mòn. Cần kiệm cũng có
nghĩa là biết bằng lòng với những cái ít ỏi, không đòi hỏi những cái tốt nhất
cho mình. Vì lúc nào cũng có cái tốt hơn cái ta đang có. Một chiếc TV lớn hơn,
một tủ lạnh rộng hơn, một cái nhà đẹp hơn, một cái xe tốt hơn, không kể đến bao
nhiêu thứ có thể khác. Không có chỗ dừng cho các ham muốn. Nếu cuộc đời ta chỉ
để chạy đuổi theo những ham muốn đó thì thật là phí thời gian, phí một kiếp
người.
Cần kiệm
có nghĩa là biết bằng lòng với cái càng ít càng tốt, chứ không phải cố gắng để
có được càng nhiều càng tốt. Chút ít đến đâu để có thể chấp nhận được thì có
chừng mực, nhưng lòng ham muốn thì không có giới hạn. Tham cầu có thể dẫn ta
lên đến mặt trăng. Còn nói được gì hơn nữa? Ai cần đến mặt trăng chứ? Chúng ta
có thể suy nghĩ thêm về điểm nầy, và cố sống cần kiệm, vì nó đem đến cho ta sự
bình yên.
Các căn
thanh tịnh... Sự thanh
tịnh của các căn là một trong những yếu chỉ của Đức Phật. Các căn của ta luôn
dẫn ta đi lạc hướng. Nhìn thấy cái gì đẹp, ta liền muốn sở hữu ngay, dầu chỉ là
một đóa hoa. Nhìn thấy hoa đẹp, liền khiến ta có những hành động sai quấy như
hái hoa, khiến cánh hoa bị hủy hoại, không còn mang lại niềm vui cho ai khác
nữa.
Thực tập
chánh niệm giúp ta nhận thức được rằng nghe chỉ là nghe, thấy chỉ là thấy. Nghe
chỉ là âm thanh. Thấy chỉ là cảnh. Rồi tâm bày vẽ thêm bao điều quanh những cái
ta thấy nghe như là: "Cái nầy đẹp quá, tôi muốn có. Cái kia xấu quá, tôi
không muốn nhìn, muốn nghe về nó nữa". Các căn của ta không ngưng tiếp xúc
với thế giới bên ngoài. Chúng ta đâu muốn không được thấy, nghe, ngửi, sờ, nếm.
Cuộc sống của ta sẽ khó khăn biết bao nếu thiếu chúng, nhưng chúng cũng mang
đến cho ta bao ảo tưởng trong cuộc sống. Chúng giống như các nhà ảo thuật vì
bất cứ lúc nào, khi vừa tiếp xúc với bên ngoài, chúng lập tức khiến tâm ta tạo
ra bao tiếng vang dội, phản ứng. Do vậy ta luôn phải canh các cánh cửa giác
quan để cho dầu có thấy, có nghe, có ngữi, có xúc chạm, chúng ta cũng không
sinh tâm luyến ái hay ghét bỏ. Điều nầy rất khó thực hiện, nhưng là một yếu tố
quan trọng gíup ta thoát khỏi được khổ đau.
Vào thời
Đức Phật còn tại thế, có một vị tu sĩ trưởng lão, tên là Bahia. Là người đã tu
nhiều năm, cũng được bao người kính trọng, nên vị tu sĩ nầy nghĩ là mình đã đắc
đạo. Ông nghĩ mình đã dứt bỏ được nhiều ham muốn, sân hận trong nhiều năm. Một
đêm kia, một vị thần hiện ra nói với ông: "Bahia, ông chưa thật sự đạt
được giải thoát giác ngộ. Thật ra, ông còn chưa biết đến con đường đưa đến giác
ngộ". Nghe vậy, thầy Bahia rất giận, ông nói: "Gì chứ? Tôi mà không
biết con đường giải thoát giác ngộ sao? Vậy thì ai biết? Hãy nói cho tôi biết
mau". Vị thần trã lời: "Chính Đức Phật mới là người biết con đường đi
đến giác ngộ. Hãy đến tham kiến Người".
Thầy
Bahia liền hỏi thăm nơi Đức Phật ở. Vị thần liến bảo cho ông biết, lập tức,
giữa đêm khuya, thầy Bahia ngồi dậy, bắt đầu đi tìm Đức Phật. Sáng hôm sau, ông
tìm đến ngôi nhà nơi Đức Phật đang trú ngụ, nhưng người ta trã lời: "Xin
lổi. Ông không thể gặp Đức Phật bây giờ. Ngài đang đi khất thực". Bahia
trã lời: "Tôi sẽ đi tìm Ngài". Lại được trã lời: "Không. Xin ông
đừng đi. Đức Phật không trã lời tham vấn khi Ngài đang đi khất thực".
Nhưng Bahia nhất quyết làm theo ý mình. Vì ông rất nóng lòng muốn biết con
đường đưa đến giác ngộ.
Ông chạy
tìm và gặp Đức Phật đang trên đường khất thực. Ông đảnh lễ Đức Phật và nói:
"Thưa Ngài, tôi muốn được hỏi Ngài một câu". Đức Phật trã lời:
"Bahia, ông đã đến không đúng lúc". Bahia lại hỏi và lại được trã
lời: "Ông đã đến không đúng lúc". Bahia lại hỏi đến lần thứ ba, Đức
Phật nói: "Thôi được rồi Bahia. Thế ông muốn biết điều gì?" Bahia
đáp: "Tôi muốn biết con đường đi đến giác ngộ". Đức Phật trã lời:
"Nầy Bahia, khi thấy chỉ thấy. Khi nghe chỉ nghe, khi biết chỉ biết".
Thầy Bahia liền tạ ơn Đức Phật rồi đi.
Buổi
chiều, khi Đức Phật cùng đi với các vị đệ tử khác, Ngài nhìn thấy xác Bahia ở
bên đường, chết vì một con trâu đâm phải. Đức Phật nói: "Bahia đã chứng
đắc giác ngộ trước khi chết". Bahia đã tu hành trong ba mươi năm, và có
thể trong nhiều kiếp trước đó nữa, nên đã có thể hiểu ngay những lời dạy của
Đức Phật. Khi ta thấy cái gì, đó chỉ là cái thấy, nhưng ta lại vẽ thêm bao
nhiêu điều về người hay vật ta thấy, do đó sinh ra thương ghét. Với các giác
quan khác cũng thế, kể cả cái biết, cái nghĩ suy. Tất cả các căn đều không thể
khiến ta tạo ra nghiệp kể cả ý căn, trừ khi chúng ta bắt đầu thấy ưa, thấy
thích, thấy ghét, thấy chán. Thầy Bahia đã hiểu được điều đó.
Giờ có lẽ
chúng ta cũng đã hiểu, và có thể thực hành như thế. Điều đó có thể thực hiện
trong mọi hoàn cảnh. Tiếng ho, tiếng chó sủa, tiếng cửa mở, tiếng chuyển động
-đó là những lúc ta có thể thực hành chỉ nghe tiếng động. Khi ta nhìn thấy một
bông hoa đẹp, chỉ tập nhìn mà không nói rằng: "Tôi sẽ trồng loại hoa đó
trong vườn", hay, "Cho tôi đi, tôi sẽ đem chưng trong bình hoa".
Hãy chỉ nhìn, và nhận biết được các vọng tưởng khởi lên khi tiếp xúc với các
căn.
Các vị
A-la-hán vì đã thanh tịnh được các căn, đã buông bỏ được mọi ham muốn, nên được
tự tại. Đó là sự tự tại với chính mình, khi không có gì được, có gì mất.
Thanh
tịnh các căn, không có nghĩa là hủy bỏ các căn hay đè nén chúng. Chỉ có nghĩa
là nhận biết được các căn bằng trí tuệ, biết được bản chất chân thật của chúng.
Khi chân bị đau, liền biết đó là do xúc chạm. Từ xúc chạm dẫn đến cảm giác,
trong trường hợp nầy là một cảm giác khó chịu. Cảm giàc đó dẫn tới ý thức:
"Đây là sự đau đớn". Từ ý thức dẫn đến tâm hành, "Tôi khó chịu
quá. Tôi phải thoát ra khỏi cảnh nầy". Cũng như với các cảnh, cái nghe,
cái thấy khó chịu, ở đây ta cũng muốn thoát khỏi cảm giác khó chịu. Sự thực tập
nầy giúp ta thêm chánh niệm, để chấm dứt các hành động theo thói quen. Khi
chúng ta có thể thanh tịnh dần các căn, lòng ham muốn của ta cũng dần giảm bớt,
giúp ta có được sự tự tại. Vì lòng ham muốn khiến tâm ta xáo trộn, không được
an. Lòng ham muốn càng mãnh liệt, sự bất an càng lớn, nhất là đối với những ước
muốn không được toại nguyện. Không có được cái ta muốn có là khổ đau. Thanh
tịnh các căn dẫn đến sự bình yên...
Trí
tuệ... Thật thú
vị khi biết trí tuệ là một trong mưới lăm điều kiện, vì ta thường nghĩ con
người được sanh ra hoặc là có trí tuệ hoặc là không. Nhưng rõ ràng không phải
thế. Nếu ta nằm trên giường ba tháng, ta phải học đi trở lại. Nếu ta không sử
dụng cái đầu, thì ta phải học lại cách suy tư. Trí tuệ là cái có thể rèn luyện
và phải được vun trồng bằng phương pháp luyện tâm trong thiền định. Nếu không
tu tập thiền, rất khó định được tâm. Tâm không uốn nắn muốn đi đâu thì đi, từ
hạnh phúc đến khổ đau, từ lo âu đến sợ hãi, từ phấn chấn đến trầm cảm, từ ham
muốn đến nhàm chán. Tâm được rèn luyện trong thiền quán có thể sử dụng các khả
năng bẩm sinh của mình một cách hữu hiệu nhất. Cần phải có trí tuệ mới hiểu
được những lời dạy của Đức Phật. Tâm sáng suốt là tâm nhanh nhẹn, có thể đổi thay,
theo hướng dẫn của ta. Nó sẽ đi đến nơi nào ta muốn và còn có thể phát triển.
Nó không cố chấp bám vao những thói quen, lế thói, phong cách cũ mòn. Nó có thể
phát triển.
Không
luyến niệm ... Đức Phật
đưa ra một ẩn dụ rất thú vị về nam giới và nữ giới. Ngài nói: "Đàn ông
giống như những con quạ bay vênh váo trên cao, tìm kiếm con mồi; phụ nữ thì như
giống cây leo, mong tìm một thân cây để tựa nương. Cả hai đều phải từ bỏ tánh
cách của mình. Con quạ là biểu tượng của càn bướng. Ở tu viện của chúng tôi, các
chú quạ vẫn tranh phần ăn của mèo. Thật là càn, phải không? Chúng đi thẳng vào
hành lang, giựt đồ ăn ngay dưới miệng mèo. Liều càn là biểu hiện của sự quyết
đóan. Quyết đoán không giống như tự tin. Tự tin dựa vào sự bằng lòng với chính
bản thân, khiến ta cảm thấy tự tại. Không cần phải lấn lướt ai. Không ai thích
người càn bướng, chỉ biết có mình, bất chấp đến ai, giống như chú quạ kia. Trái
lại người tự tin có thể tự đứng trên đôi chân, tin chắc vào khả năng, triển
vọng của mình. Không cần phải cho người khác biết về những điều đó. Ngược lại
càn bướng không phải là để phát huy lòng tự tin, mà chỉ thổi phồng thêm ngã
chấp.
Không bị
đám đông lôi kéo... Nếu người khác sân hận, ta không để lòng sân đó lôi kéo. Nếu ai đó
âu sầu, ta không ủ rũ theo. Nếu người khác có ý chỉ trích ai, ta không hùa theo
vì thích nói những chuyện như thế. Chúng ta có thể làm chủ được các cảm xúc của
mình.
Khi chúng
ta không kiềm chế được lòng sợ hãi, ta sẽ bị khiếp đảm. Khi không kiềm chế được
sân hận, sẽ có giao tranh. Khi ta không làm chủ được các cảm xúc của mình, ta
sẽ bị kẻ khác lôi kéo -đàm tiếu, nói xấu, hỗn loạn, khiếp đảm, chiến tranh. Để
không bị cảm xúc của đám đông lôi cuốn, chúng ta cần phải cảm nhận được những
cảm xúc của riêng mình, và phải trụ nơi đó. Ta phải tự biết khi nào chúng tốt
đẹp, khi nào chúng xấu ác.
Hãy tránh
xa những điều mà bậc hiền trí chê bai... Đó là điều kiện thứ mười lăm, có nghĩa là không phạm ngũ giới:
1. Tôi
nguyện không giết hại sinh vật.
2. Tôi
nguyện không lấy của người
3. Tôi
nguyện không phạm tà dâm
4. Tôi
nguyện không nói lời sai trái
5. Tôi
nguyện không uống rượu hay dùng các thứ làm mê say...
Bất cứ ai
có chút hiểu biết cũng thấy nếu phạm vào bất cứ giới nào cũng đáng chê trách.
Giận dữ, sân hận cũng đáng trách. Thật thú vị khi biết rằng người ta muốn bỏ
tánh nầy biết bao. Không chỉ vì đó là khuyết điểm, mà vì lòng sân hận khiến ta
rất khó chịu. Lòng ham muốn, tham lam tuy không bị chỉ trích bao nhiêu, nhưng
cả hai cũng đều cản trở sự phát triển tâm linh của ta như nhau. Cả hai được nêu
lên ở đây để chuẩn bị cho lòng từ bi đối với người khác.
Chúng ta
không cần đi đâu để hỏi ý kiến của ai. Tất cả chúng ta đều có lương tâm, để tự
biết hành động nào đáng chê trách. Nhưng chúng ta thường bào chữa, "Đúng,
nhưng tôi phải làm vì ... ", và chúng ta có cả một bảng liệt kê của bao lý
do: 'vì cô ấy quá tệ; vì anh ta không để tôi làm thế; vì lúc nào họ cũng nói
..." Chúng ta cần ngưng lại ở nhận thức, "Đây là điều đáng
trách". Chỉ cần nhận biết được rằng một y( nghĩ, một lời nói hay một hành
động nào đó của ta bất thiện là đủ. Cần biết, vì điều đó giúp ta tránh lập đi
lập lại hành động đó. Nhưng chúng ta không cần phải tự dằn vặt mình: "Tôi
thật là tệ. Tôi đã nghĩ suy, nói năng, hành động quái gở quá vậy?" Đó
không phải là từ bi. Chúng ta cũng cần được thương vậy.
Không cần
phải bào chữa, cải chính. Lầm lổi chỉ có nghĩa là khả năng hành động của ta
chưa được viên mãn, có nghĩa là ta phải vun trồng thêm khả năng đó. Đây là mười
lăm điều kiện tiên quyết để vun trồng tình cảm tình thương người khác. Đức Phật
chỉ bắt đầu nói đến lòng từ bi trong đoạn kinh kế tiếp.
Bài kinh
tiếp nối như sau: "Đây là điều ta phải hằng ghi nhớ trong tâm: Nguyện
cho tất cả sinh linh tràn đầy muôn hạnh phúc, và nguyện cho tất cả đều được
thái bình an lạc... . Nếu chúng ta luôn giữ được lời nguyện nầy trong tâm,
thì ta sẽ không bao giờ có những tư tưởng chống báng lại ai.
Bài kinh
tiếp nối bằng cách liệt kê đủ loại người:
Bất cứ
chúng sinh nào ở trên cõi đời
Dầu cho là loại yếu ớt hay mạnh mẽ
Lớn nhỏ hoặc trung bình
Thấp cao không đồng đẳng,
Hữu hình hoặc vô hình,
Đã sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết...
Dầu cho là loại yếu ớt hay mạnh mẽ
Lớn nhỏ hoặc trung bình
Thấp cao không đồng đẳng,
Hữu hình hoặc vô hình,
Đã sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết...
Chúng ta
cần hướng lòng từ bi đến tất cả chúng sinh, dầu đang sống hay đang tìm đường
tái sinh, hoặc là người hay súc sanh, bất kể hình thể, kích cở nào, có tướng
hay không tướng, ở bất cứ cõi giới nào, không ngoại trừ chi. Chúng ta chỉ thấy
được loài người, loài thú, nhưng điều đó không có nghĩa là không còn có những
hiện hữu khác. Không thể vì tầm nhìn của ta hạn hẹp mà cho rằng không còn gì
hơn thế nữa. Các chú ong, là một thí dụ, có thể nhìn thấy tia cực tím, nhưng ta
thì không. Chó có thể nghe những âm thanh rất nhỏ mà ta thì không hề hay biết.
Do đó những gì ta không thấy, không nghe, vẫn có thể hiện hữu.
Nguyện
cho tất cả chúng sanh tràn đầy muôn hạnh phúc ... Chúng ta mong tất cả chúng
sinh đều được sống trong hòa bình, hạnh phúc. Chúng ta tập không làm hại đến
chúng sinh có nghĩa là ta có lòng nghĩ đến người khác. Mục đích của chúng ta là
không làm hại ai. Nguyện cho tất cả được sống bình an, hạnh phúc và nguyện
cho tất cả được tự tại trong lòng. Nếu chúng ta luôn biết tư duy như thế
thì sẽ được bình an, tự tại nơi bản thân, và ở nơi những người ta tiếp xúc.
Câu tiếp
theo: Nguyện không ai làm hại ai, Đừng lừa đảo lẫn nhau, Chớ bất mãn điều
gì, Đừng mong ai đau khổ... Hãy nguyện cho chúng sinh không sát hại lẫn
nhau. Dầu cho chúng ta không chấp nhận một hành động nào đó, cũng không có
nghĩa là ta phải khinh rẻ người thực hiện. Hành động có thể bất thiện, nhưng
hãy nhớ có thể người ta hành động như thế vì bị vô minh che phủ. Nếu chúng ta
miệt thị người khác, ta sẽ tạo ra ác nghiệp cho mình. người khác đã hành động
như thế cũng đã quá đủ.
Như người
mẹ hiền hy sinh thân mạng để bảo vệ, che chở cho đứa con duy nhất của mình,
chúng ta nên nuôi dưỡng một tình thương như thế đối với tất cả chúng sanh trong
vũ trụ... Chúng ta
hãy tương tượng mình như mẹ hiền của tất cả chúng sinh -và cũng có thể lắm chứ
trong những kiếp quá khứ- có thể chúng ta sẽ biết phải tiếp xúc với người khác,
với tất cả chúng sanh, không trừ một ai, như thế nào. Đây là những lời giáo
huấn của Đức Phật, và Ngài đã khai thị cho chúng ta như những lời chỉ lối, dẫn
đường. Đức Phật đã nói, nếu chúng ta có thể xếp được xương của tất cả những
người làm mẹ, làm cha của ta trong hằng hà sa số kiếp, nối tiếp nhau, thì xương
đó có thể bao quanh trái đất nầy không biết bao nhiêu lần. Nếu chúng ta đã có
nhiều cha, nhiều mẹ như thế, thì chúng ta cũng có thể là cha, là mẹ của bao đứa
con. Nếu chúng ta có thể nghĩ một cách rộng rãi bao trùm vũ trụ, thay vì chỉ
với một vài đứa con của mình ở nhà, thì ta có thể trãi rộng tình thương đến cho
biết bao nhiêu người. Nếu tất cả nhân loại đều là con cái của ta, dĩ nhiên ta
không thể mong mỏi tất cả đều theo ý của ta muốn, chúng phải như thế nầy, hành
động như thế kia. Tất cả đều không phải 'của tôi". Nếu chúng ta có thể tư
duy như thế thì những cái ta coi là 'cái của tôi' hẳn là sẽ giảm bớt. Người mẹ
sẽ hy sinh thân mạng để che chở cho đứa con một của mình, Đức Phật đã dạy.
Chúng ta cần nên đối với mọi người bằng tấm lòng của người mẹ như thế.
Điều đó
dường như không thể thực hiện được, nhưng đó là những lời khai thị, giúp ta
nhận ra rằng chúng ta rất thiếu tình thương dành cho tha nhân. Điều nầy càng rõ
ràng hơn, nếu như ta so sánh tình thương mình dành cho con mình với tình thương
dành cho con của người hàng xóm. Nói gì đến tất cả chúng sanh trên thế giới
nầy? Nhưng cũng không phải là không thể nào ươm trồng sự quan tâm, chăm sóc,
thương yêu, hỗ trợ cho tất cả chúng sanh, nhất là những người đang sống trong
những hoàn cảnh ngặt nghèo.
Đức Phật
mỗi sáng đều toạ thiền, lúc đó Ngài thường phóng chiếc lưới từ bi ra ngoài. Với
thiên nhãn của mình, Ngài sẽ cứu vớt chúng sanh nào có thể cúu vớt được. Sau đó
Ngài đến với người ấy và truyền Pháp cho họ. Ngài đã hoằng pháp như thế trong
bốn mươi lăm năm, đi trên bao lộ trình để đến với chúng sanh. Đó là lòng từ bi
của đấng Giác ngộ. Chúng ta cũng có thể phát triển tình mẫu tử đến với những ai
đang khổ đau, cũng như Đức Phật đã nhìn thấy họ khi Ngài phóng chiếc lưới từ
bi.
Từ tâm
siêu việt, đến cõi trời, ngạ quỷ hay khắp trong vũ trụ... Tình thương trãi rộng đến
tất cả chúng sanh từ tâm rộng lớn, tâm không bị nhiễm ô cấu uế của hồng trần.
Đó là tâm tỉnh thức trong thiền định. Tâm bình thường lúc nào cũng bị phiền não
ngậm nhấm như chú chuột ngậm nhấm trên thân gỗ mục. Khi tâm đó tràn đầy lòng từ
và bi mẫn, nó chỉ gắn chặt vào đấy, và buông bỏ những suy nghĩ tầm thường. Tâm
đó không còn bị phiền não quấy nhiễu.
Không hẹp
hòi, oan trái, Không hờn giận căm thù... Nhưng không có nghĩa là tất cả mọi vấn đề vụn vặt đều đã biến mất.
Chúng sẽ không bao giờ biến mất. Nếu bạn thử nhìn lại trong giây lát, bạn có
nhớ trong hai mươi năm qua, có ngày nào mà không có việc khiến bạn phải bận
tâm? Tâm không phiền não, không chứa đựng sân hận vì tâm không phiền não tràn
đầy hạnh phúc, mà tâm bình an, hạnh phúc không thể có chỗ cho lòng oán thù.
Khi đi,
đứng, nằm, ngồi
Bao giờ còn thức tĩnh
Giữ niệm từ bi nầy,
Thân tâm thường thanh tịnh
Bao giờ còn thức tĩnh
Giữ niệm từ bi nầy,
Thân tâm thường thanh tịnh
Dầu ở
đâu, đi, đứng, ngồi hay cả khi nằm mà chưa ngủ, ta nên ươm trồng lòng từ bi. Chánh
niệm về lòng từ bi như một người mẹ đối với tất cả chúng sanh. Tâm hồn ta sẽ bị
giới hạn trong tình thương dành cho một, hai hay ba, hay bốn, năm người, trong
khi quanh ta có đến hơn bốn tỉ người cần được thương yêu.
Khi là
cha, là mẹ, ta sẽ không thấy khó khăn biểu lộ tình cảm mình với người khác, vì
ta biết tình cảm của mình đối với con cái ra sao. Cũng như ta vẫn nhớ đến cách
cư xử của chính cha mẹ mình. Với những kinh nghiệm cá nhân nầy làm nền tảng,
chúng ta có thể cố gắng để trãi rộng tình thương xa hơn nữa.
Phạm hạnh
chính là đây... Đời sống
thánh thiện ngay trên mặt đất nầy. Điều nầy tạo cho ta cảm giác hoàn toàn tự
tại, yên ổn, an toàn cũng như tất cả bao trạng thái tốt đẹp khác nữa. Được thế
giúp tâm ta dễ đi vào định, là một trong mười một điều lợi của tâm từ bi. Đó là
một cách sống thánh thiện ngay trong hiện tại. Ta không cần phải chờ đợi đến
khi ta đã vào cõi thiên mới được.
Ai xả ly
kiến thủ
Có giới hạnh nghiêm trì
Đạt chánh trí viên mãn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử
Có giới hạnh nghiêm trì
Đạt chánh trí viên mãn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử
Những lời
trên dường như diễn tả một vị A-la-hán. Khi ta sống không còn chấp kiến...
Bất cứ là gì! Chánh kiến duy nhất là Tứ Diệu Đế, đưa ta đến giác ngộ. Ngoài ra
quan điểm chỉ là quan điểm, không dựa trên những kinh nghiệm đích thực.
Nazarudin,
một vị thần Sufi vĩ đại, đã từng nói: "Đừng nhọc công tìm kiếm giác ngộ.
Chỉ cần biết buông bỏ quan điểm, ý kiến". Buông bỏ kiến hoặc không có
nghĩa là đánh mất sự phận biệt phải trái trong hành động của ta. Nhưng nhiều
người trong chúng ta chứa chấp những quan điểm, ý kiến tự trói buộc mình vào
ngục tù của tâm. Buộc họ, cũng như người chung quanh phải nói năng, hành động,
dáng vẻ như thế nào, và thế giới phải như thế nào...
... Có
giới hạnh nghiêm trì, đạt chánh trí viên mãn ... Tuệ giác tròn đầy đạt được
là nhờ ở nền tảng của các đạo đức vẹn toàn.
Không ái
nhiễm dục trần... Mọi ái
dục đều được đoạn trừ, không còn ham muốn điều gì, thì không còn khổ não. Đó là
cánh cửa mở đến niết bàn, giải thoát hoàn toàn mọi mong cầu.
Không còn
phải luân hồi sinh tử. Không tái sinh! Bài kinh nầy dẫn ta đi từ những trạng thái bình
thường của khả năng, chất phác, ngay thẳng và khiêm cung, đến giác ngộ chỉ
trong vài vần thơ ngắn ngủi. Trước hết ta phát tâm từ bi thương yêu đến tất cả
chúng sanh như thể thương yêu con cái của mình, nhờ đó giúp ta đi vào thiền
định, vì từ bi là một trong ba trụ thiền. Khi luôn có tâm chánh niệm, ta có mặt
'ngay trong giờ phút nầy và ở tại nơi đây", nên ta không còn chấp kiến về
ngã, về nhân, về thế giới bên ngoài ta. Dựa trên nền tảng đạo đức đó, ta sẽ có được
tuệ giác và giác ngộ. Một con đường thẳng tắp, không lối ngang, ngã rẽ, không
phải luận bàn gì nữa, chỉ cứ thế mà thực hành.
Đó là
những điểm trọng yếu của bài kinh quen thuộc nầy, lời kinh quen thuộc, nhưng
hành động thì khó làm. Đức Phật đã truyền cho chúng ta những lời dạy rõ ràng để
thanh tịnh hoá tâm, chỉ cho ta cách xếp đặt cuộc đời mình trong ngoài vẹn toàn.
Tất cả đã bày sẳn cho ta nắm bắt, nhưng không ai có thể làm thay cho người
khác. Mỗi người phải tự dấn thân.
Xưa có
một người tìm gặp Đức Phật để tham vấn. Ông ta nói rằng đã nghe pháp của Phật
nhiều năm nay, trong thời gian đó, ông ta đã được gặp gở với nhiều vị tăng ni,
đệ tử của Đức Phật. Ông ta đã kết thân với một số họ, và thấy rằng có người đã
hoàn toàn thay đổi. Họ đã trở nên từ bi, tử tế, thông thái, kiên trì hơn, nhưng
cũng có nhiều người không thay đổi gì cả. Lại có người còn đánh mất tính kiên
nhẫn, không còn thương yêu hay tử tế với người khác nữa. Trong khi tất cả các
vị tăng ni nầy đều cùng nghe những bài thuyết pháp giống nhau. Ông ta muốn biết
tại sao lại như thế.
Đức Phật
bèn hỏi người đó: "Nhà ngươi ở đâu?". Người đàn ông trã lời: "Ở
Rajagaha". Đức Phật lãi hỏi: "Thỉnh thoảng ngươi có về thăm lại
Rajagaha?" Người kia trã lời: "Tôi vẫn thường trở lại nơi đó, vì tôi
có công việc làm ăn và gia đình ở đó". Đức Phật lại hỏi: "Ngươi có
biết đường về Rajagaha?" Người ấy trã lời: "Tôi biết rõ đến độ có thể
đi trong đêm. Tôi không cần phải nhìn nữa, tôi biết đường quá rõ". Đức
Phật lại nói: "Nhưng nếu có người muốn đi Rajagaha, ngươi có thể chỉ lại
không?" Người kia trã lời: "Nếu Ngài thấy ai cần giúp, cứ bảo họ đến
tìm tôi, vì tôi có thể chỉ họ rõ ràng. Tôi đã đi trên con đường ấy quá nhiều
lần". Đức Phật nói: "Ta tin ngươi. Nhưng nếu ngươi chỉ cho họ đường
đi đến Rajagaha, nhưng họ cứ ở mãi trong thành Benares, đó có phải do lỗi của
người không?" Người kia trã lời: "Dĩ nhiên là không. Tôi chỉ là người
chỉ đường thôi". Đức Phật trã lời: "Ta cũng thế. Ta cũng chỉ là người
chỉ đường".
Tất cả
những gì các bạn đã nghe, đã ghi chú hay đã hiểu, chỉ là những cột mốc, bảng
tên đường cho bạn biết hướng đi đúng sai. Nhưng nếu chúng ta không bắt đầu khởi
hành thì ta sẽ mãi là người lữ hành tại chổ. Bài kinh về lòng từ bi cần được
thực hành. Không có lời giả dối trong đó, mỗi chữ đều có ý nghĩa, đều rõ ràng.
Đức Phật
lại nói: "Nầy các tỳ kheo, nếu tất cả những lời ta nói không đem lại lợi
ích cho các ngươi, ta đã không bảo các người nghe theo. Điều nầy có thể thực
hiện được". Đức Phật bảo chúng ta có thể phát khởi tâm từ bi như mẹ hiền
đến với tất cả chúng sanh. Cũng như chúng ta có thể chứng ngộ, nếu không Đức
Phật đã không khuyên tất cả đệ tử của Ngài như thế. Một điều chắc chắn rằng
chúng ta có thể chỉ phát thiện tâm, chỉ tràn đầy bi mẫn. Ý nghĩ quan trọng hàng
đầu. Cần phải suy tư, khởi ý như thế nào, trong kinh nầy đều đã nói rõ. Chúng
ta suy nghĩ như thế nào sẽ khiến ta phải chịu phiền não, âu lo, bất ổn hay bình
an, hạnh phúc.
Bài kinh
được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những
điều ta cần làm cho tha nhân. Mà là những điều ta cần làm cho chính bản thân,
đó là động lực thúc đẩy ta phải hành động. Đúng thế, vì chỉ có ta mới có thể tự
sửa đổi lấy mình. Tha nhân sẽ được hưởng phúc lợi từ lòng từ bi của ta, chỉ là
thứ yếu. Điểm chính yếu ở đây là tâm thanh tịnh của ta, đó mới là mục đích
chính. Trước hết ta cần phát khởi tâm từ bi, sáng suốt. Hai đặc tính nầy đi với
nhau, vì tâm tràn đầy tình thương không thể có chỗ cho sự hỗn loạn. Tâm không
xáo trộn là tâm có thể tư duy, nói năng rõ ràng.
Khi ta đã
quyết thanh tịnh hoá tâm, ta có thể tận dụng bài kinh nầy để làm thước đo:
"Tôi đang làm gì? Tôi có đang hành động theo lời kinh dạy?" Đó là một
trong những cách để biết chắc rằng chúng ta không bị lạc đường. Không cần phải
tự trách mình. Chúng ta có thể chuyển đổi tâm mình. Không khó khăn gì. Chúng ta
càng tinh tấn hành thiền, việc đó càng dễ thực hiện. Khi đó tâm ta trở nên mạnh
mẽ, khiến ta có thể chuyển hoá tâm theo ý mình. Người mà có thể làm chủ mọi tư
tưởng của mình, là người đã đạt được tri kiến.