Ni sư Ayya Khema
Diệu Liên - Lý Thu Linh dịch
Nguồn: Vô ngã Vô ưu
Trước hết ta phải tẩy uế, thanh lọc tâm. Nhưng không thể có
tâm thanh tịnh, nếu như thân ô uế, vì thế, ta cũng cần tẩy rửa các thứ tạp uế
đã chất chứa trên thân thể ta bấy lâu nay.
Hãy tưởng tượng một người đã sống trong một ngôi nhà đã hơn
hai mươi, ba mươi năm không dọn dẹp. Bao nhiêu thức ăn thừa thãi, quần áo bẩn
thỉu, rác rưởi đã chất đến trần nhà. Phải sống giữa đống rác đó thật hôi thối, khó
chịu. Nhưng nguời chủ sống ở đó thì chẳng hề bận tâm, cho đến một ngày có người
bạn ghé qua và nói: "Sao bạn không dọn nhà mình cho sạch sẻ?". Rồi
hai người bạn bắt tay vào dọn dẹp một góc nhà. Sau đó người chủ bắt đầu thấy sống
ở góc phòng sạch sẻ đó dễ chịu hơn. Nên dọn dẹp cả căn nhà, người chủ bây giờ
có thể ngắm quang cảnh bên ngoài, có đủ chỗ đi qua lại trong nhà. Khi chỗ ở đã
trở nên thoải mái dễ chịu, người chủ mới có thể quay vào chú trọng đến nội tâm
mình.
Căn nhà đó là thân chúng ta. Bất kể chúng ta đi đâu: từ
thành phố nầy đến xứ sở kia, từ chỗ trọ nầy đến nơi ở khác, không biết bao
nhiêu lần. Ta cũng lôi kéo thân đi cùng khắp cho đến ngày nó rời rã, hư hoại,
chỉ còn là một đống xương, một nhúm cát bụi. Nhưng còn chưa tới ngày ấy, ta còn
phải mang thân nầy. Còn phải sống, ta còn cần phải dọn dẹp cho ‘căn nhà’ nầy được
thông thoáng, sạch sẽ. dễ chịu.
Các phản ứng tâm lý chất chứa bên trong lâu ngày đã che mắt
tâm ta. Tâm đã dung chứa chúng thì chính tâm cũng phải tháo gở chúng. Trong Thiền,
điều nầy đồng nghĩa với “nhận biết các cảm thọ, nhưng không phản ứng, rồi buông
bỏ’. Bản chất của Thiền là không phản ứng. Đặc tính quan trọng đó giúp ta tìm
được sự an lạc, quân bình trong tâm hồn, vì các phản ứng giống như sự chuyển động
của các làn sóng phủ chụp ta, làm ta mờ mịt không thấy lối ra. Và chúng ta tiếp
tục u mê. Chúng ta có thể nghe, chúng ta có thể cảm thấy, nhưng không thể nhìn
thấy ‘nội tâm’ của ta. Nội tâm đó đã bị che phủ bởi các hành động, những phản ứng
tình cảm của chúng ta.
Khi các vọng tưởng khởi lên trong lúc tọa thiền, ta chỉ cần
biết chúng dấy khởi, mà không cần có phản ứng. Và ta cũng chỉ cần làm có thế.
Thái độ không phản ứng nầy cũng có thể được mang áp dụng vào đời sống hàng ngày
của ta. Cảm thọ nào dấy khởi, ta chỉ cần nhận biết nó đến, rồi để nó đi. Nếu
chúng ta có thể quán tưỡng được như thế lúc ngồi thiền, là ta đã học được một
trong những bài học quan trọng nhất trong việc tự giải thoát mình.
Thật sai lầm nếu nghĩ rằng vì chúng ta đang sống, tức nhiên
ta phải biết nghệ thuật sống. Đó là một nghịch lý khác của cuộc đời. Sống là một
nghệ thuật. Ai trong chúng ta chẳng tùng vấp ngã một, đôi lần trong đời. Ta gọi
đó là thảm kịch, bất hạnh ‘cuả tôi’. Thật ra đó chỉ là một nghệ thuật sống chưa
được hoàn hảo.
Đặc tính thứ ba nhưng không kém phần quan trọng của việc tu
thiền là ta có thể kinh nghiệm được tính cách vô thường của sự vật. Trừ khi tự
chúng ta kinh nghiệm được điều đó, nếu không tính cách vô thường của sự vật
cũng chỉ là những lời nói vô nghĩa. Và lời nói không giúp chúng ta giải thoát
được. Phải tự chứng nghiệm. Con đường Đức Phật chỉ cho chúng ta là con đường nhằm
đưa đến giải thoát -một sự tự do hoàn toàn, tuyệt đối, và điều đó mỗi người phảitự
chứng nghiệm lấy. Khi tham thiền, hãy kinh nghiệm sự vô thường trực tiếp qua việc
chú tâm vào hơi thở, ta biết rằng một hơi thở vừa vào, lại một hơi thở ra. Hơi
thở trước không giống hơi thở sau. Cảm thọ nầy dấy lên, rồi qua đi. Tiếp theo một
cảm thọ khác lại đến. Rồi nối nối các cảm thọ khác dấy lên, cuối cùng không còn
gì nữa. Một cảm giác đau ở chân, ta trở mình, cảm giác đau biến mất. Cảm thọ đến,
rồi cảm thọ đi.
Với chút ít kinh nghiệm tu tập thiền, ta có thể dễ dàng nhận
ra được sự vô thường của cảm thọ, đồng thời ta cũng nhận ra được sự vô thường của
bản thân. Ai cũng biết thế. Người có hiểu biết đều biết rằng thân của ta, của tất
cả mọi người đều vô thường, hoại diệt. Nhưng tất cả chúng ta đều sống như thể
ta sẽ không bao giờ mất, ta đau khổ, khóc than khi thân nầy bị hủy hoại theo luật
tự nhiên, như thể đó là việc ta không bao giờ ngờ tới.
Suy nghĩ như thế là sai lầm, vô lý lắm phải không? Đó là vì
chúng ta tự quay lưng lại với thực tại. Ta chỉ muốn chấp nhận cái tốt đẹp. Còn
khi phải đối mặt với sự thật phủ phàng, ta tìm cách đổ lổi cho kẻ khác. Có người
còn đổ cho quỷ thần, trời đất. Không cần biết ta trách móc người chung quanh
hay trách trời đất, sự thật là cuộc đời đầy những vô thường, chúng ta phải chấp
nhận sự thật đó để sống cho đúng.
Khi chúng ta suy nghĩ thêm, ta sẽ thấy là mỗi giờ phút trôi
quá, các tế bào trong cơ thể cũng thay đổi. Chúng ta ai không học điều nầy ở
nhà trường.
Rõ ràng là chúng ta có thể kiểm nghiệm được điều nầy. Khi lắng
sâu trong Thiền định, ta có thể cảm được từng cảm giác trên da thịt mình. Ta sẽ
có cái nhìn khác về chính bản thân ta, cũng như về cuộc đời, vì giờ ta đã thấu
hiểu bằng chính kinh nghiệm của mình rằng không có gì bền vững, tồn tại mãi, nhất
là với thân nầy.
Khoa học đã chứng minh rằng không có gì trong vũ trụ là một
khối. Tất cả vật chất hiện hữu đều được tạo thành bởi những phân tử di chuyển với
tốc độ nhanh -đến cùng với nhau và rã tan cùng nhau- do đó chúng tạo ra ảo tưỡng
của một khối vũng chắc. Đức Phật 2500 năm về truờc đã nói như thế về các phân tử,
không cần đến các phòng thí nghiệm để chứng minh điều đó. Ngài đã tự kinh nghiệm
điều đó và đã Giác ngộ. Các nhà khoa học cũng biết tất cả những điều nầy, nhưng
họ không phải là đấng giác ngộ, vì điều họ thiếu sót là kinh nghiệm bản thân,
chính họ không tự chứng được những điều nầy.
Ta cũng tự biết với một chút phán đoán thông minh rằng không
có gì là một khối cứng rắn. Nếu không sẽ không có cơ thể chúng ta, mà chỉ có những
cái xác người. Nhưng đó là sự phán đoán của lý trí. Chưa đủ. Ta còn phải cảm nhận
được điều ấy. Khi ta cảm nhận được như thế trong Thiền định, ta thật sự ‘biết’.
Không ai có thể bàn cãi gì được về những kinh nghiệm của chính bản thân ta.
Ngay chính như nếu có ai đó nói với ta rằng: ‘Không. Không phải vậy. Thân ta là
một khối. Sao bạn không thử nắn thân thể mình thì biết. Nó là một khối cứng rắn,
phải không?’, ta cũng sẽ không muốn bàn cãi, không để bị thuyết phục. Như khi
có người tranh luận về những điều Đức Phật dạy, Ngài đã không cãi lại. Ngài
không phải bảo vệ cho giáo lý của mình. Vì Ngài đang nói về các kinh nghiệm tự
chứng.
Với sự chú tâm nhất quán, thậm sâu, ta có thể ‘thấy’ được những
thay đổi không ngừng trong ta. Chính tâm ta cảm nhận được điều đó, bên trong cơ
thể ta, vây thì tâm phải đứng ngoài mới nhìn thấy được, vậy làm sao nói được ta
là một khối rắn chắc. Tâm có thể nói rằng: ‘Nếu luôn luôn có sự chuyển đổi bên
trong ta, vậy thì cái ‘tôi’ ở đâu?’ Tất cả các cảm giác luôn thay đổi. Phút trước
có, phút sau không. Cơ thể luôn biến đổi. Không có gì để ‘tôi’ bám víu vào. Tư
tưởng luôn thay đổi, vậy ‘tôi’ ở đâu? Nhưng dĩ nhiên là con người chạy tìm một
hình ảnh tưỡng tượng để ẩn trú vào như là một con người siêu phàm (higher
self), một tâm linh, một linh hồn, v..v... Nhưng xét kỹ ra, tất cả đều là ảo tưỡng.
Chúng ta phải chấp nhận vô thường.
Một đăc tính nữa của việc hành Thiền, chính là phương pháp
Thiền mà Đức Phật đã nhắc đến trong lúc thuyết giảng về nền tảng của sự chú
tâm, thiền quán về bốn yếu tố: đất nước, gió, lữa. Cảm giác về sự cứng rắn
trong cơ thể thuộc về đất. Chúng ta cũng cảm được thể rắn chắc trong chiếc bồ
đoàn ta ngồi. Yếu tố rắn chắc (Đất) có mặt ở khắp mọi nơi. Ngay cả trong nước
cũng có, nếu không, ta đã không thể lội trong đó, hay đặt thuyền lên nước. Yếu
tố đó có cả trong không khí, nếu không chim, máy bay không thể bay trong đó.
Yếu tố Lửa -nhiệt độ- cũng ở khắp nơi. Nếu để ý, chúng ta có
thể cảm thấy sức nóng trong thân mình. Thường ta chỉ để ý đến yếu tố nầy khi
đang lạnh cóng, bị nóng quá hay lúc bị cảm sốt. Nhưng nhiệt độ luôn có mặt
trong cơ thể ta. Cũng như trong tất cả mọi sinh vật.
Yếu tố Nước ở trong máu, nước miếng, nước tiểu của chúng ta.
Yếu tố nước cũng là sức kết, bện. Khi ta có bột, đổ nước vào, bột sẽ dính vào
nhau. Nước là yếu tố kết, bện có mặt ở khắp mọi nơi. Không có nó, tất cả các tế
bào di chuyển trong thân ta, sẽ tan rã. Chúng ta sẽ không thể ngồi đây nều
không có nó để giữ cơ thể chúng ta lại.
Tất cả những khám phá nầy thật lý thú phải không? Nhưng
chúng cũng vô dụng nếu ta không kinh nghiệm được chúng. Chúng sẽ vẫn chỉ là những
kiến thức tiêu khiển trong lúc tán gẫu với bạn bè. Nhưng khi ta có thể tự kinh
nghiệm được, chúng sẽ trở thành sự hiểu biết sâu sắc bên trong, về vật chất
quanh ta. Trí tuệ, sự nhận biết được bản chất thật của sự vật là điều Đức Phật
thường hay nhắc tới.
Cuối cùng là yếu tố không gian (Gió). Có không gian - những
chỗ mở- trong ta, như là lổ mũi, bên trong miệng. Ngay trong nội tạng cũng có
những chỗ mở. Vũ trụ là không gian. Nếu chúng ta nhận ra được những điều nầy,
chúng ta sẽ thấy là tất cả đều cùng một thể, ta sẻ bớt được những suy nghĩ như
-’Đây là tôi và tôi sẽ chỉ lo cho một mình tôi, không cần biết đến thế giới
quanh tôi. Mong là họ cũng sống an lành, nhưng đừng có trông cậy vào tôi’. Khi
chúng ta nhận ra rằng chúng ta có cũng chỉ là do các duyên hợp lại, rồi tan đi,
chúng ta không là gì ngoài bốn thứ gió, lửa, đất và nước họp lại, thì ‘tôi’ là
gì, đến nổi lúc nào ta cũng chăm chăm bảo vệ nó bằng mọi cách.Và thế giới còn lại,
người chung quanh ta là gì, để ta phải cảm thấy bị họ đe dọạ?
Thiền là nhắm đạt được giác ngộ; và giác ngộ là mục đích của
người Phật tử tu thiền. Các phương tiện là những dụng cụ. Ta sử dụng chúng cách
nào cho hữu hiệu hơn cả. Mỗi người một cách khác nhau. Nhưng ta càng sử dụng
chúng thuần thục, thì kết quả càng nhanh chóng, dễ dàng hơn. Nên nhớ phải chú
tâm vào phương tiện, không vào kết quả. Chỉ có như thế thì sự tinh xảo, thuần
thục mới đến với chúng ta.