Tăng sĩ phải là gương sáng của đạo đức và trí tuệ, là người thầy dạy giáo pháp và đạo đức và giới luật. Nhà chùa phải là trung tâm của trí tuệ và đạo đức, chứ không phải là nơi chỉ có cúng kiến và lễ bái. Kinh sách Phật phải được giảng diễn cho người đời hiểu và làm theo, chứ không phải để riêng cho giới tu sĩ đọc tụng. Ðó là hướng tiến tới của đạo Phật chân chính sẽ còn tồn tại lâu dài trong lòng người Việt Nam, trong cuộc sống của người Việt Nam, trên đất nước Việt Nam chúng ta.
Lịch sử Ðức Phật Thích Ca
Tỳ kheo Thích Minh Châu
(Nguồn: Thích Minh Châu, 2005, Ðức Phật của chúng ta, nxb Tôn giáo)
1. Thái tử Tất Ðạt Ða ra đời
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni) gần thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ), một nơi hiện nay là vùng biên giới giữa Nêpan và Ấn Ðộ, Ðức Phật Thích Ca đã giáng sinh, làm Hoàng tử con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hoàng hậu Maha Maya (Ma Da). Vua Suddhodana trị vì một vương quốc nhỏ của bộ tộc Sakya (Thích Ca).
Vào ngày rằm tháng 4, năm 623 trước công nguyên tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni) gần thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ), một nơi hiện nay là vùng biên giới giữa Nêpan và Ấn Ðộ, Ðức Phật Thích Ca đã giáng sinh, làm Hoàng tử con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) và Hoàng hậu Maha Maya (Ma Da). Vua Suddhodana trị vì một vương quốc nhỏ của bộ tộc Sakya (Thích Ca).
Vì Hoàng
hậu Maha Maya qua đời bảy ngày sau khi Thái tử sinh ra, cho nên Thái tử được bà
dì Maha Pajapati Gotami (Maha Ba xà ba đề), trực tiếp nuôi nấng, dạy dỗ, còn
người con trai của Bà dì là Nanda thì được giao cho các bảo mẫu nuôi dưỡng.
Tên riêng
của vị Phật tương lai là Si Ðác Ta (Tất Ðạt Ða), tên giòng họ Ngài là Gotama
(Cồ Ðàm). Vì giòng họ nầy thuộc bộ lạc Sakya (Thích Ca), cho nên sau nầy có
danh hiệu Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni). Muni là bậc Thánh, Sakya Muni là bậc
thánh thuộc bộ lạc Thích Ca.
2. Ðạo sĩ A Tư Ðà và Thái tử
Ngày Thái Tử Si Ðác Ta đản sanh là ngày hội vui lớn của toàn vương quốc. Dân chúng xa gần kéo về kinh đô Kapilavastu ăn mừng. Một vị Ðạo sư già tên là Asita (A Tư Ðà) cũng từ nơi ông tu hành trên núi Himalaya (Hy mã lạp sơn) đến cung vua để chào mừng và xem tướng Thái tử. Gặp Thái tử, đạo sĩ Asita bỗng nhiên chắp tay vái chào với thái độ hết sức cung kính. Ðạo sĩ tuy cuời mà vẻ mặt thoáng buồn. Ðược hỏi vì cớ sao, Ðạo sĩ Asita trả lời là ông mừng vì Thái tử tương lai sẽ thành Phật, bậc giác ngộ và thượng, nhưng ông buồn vì ông tuổi đã quá cao, ắt phải qua đời mà không được vị Phật tương lai trực tiếp giáo huấn, giác ngộ.
Ngày Thái Tử Si Ðác Ta đản sanh là ngày hội vui lớn của toàn vương quốc. Dân chúng xa gần kéo về kinh đô Kapilavastu ăn mừng. Một vị Ðạo sư già tên là Asita (A Tư Ðà) cũng từ nơi ông tu hành trên núi Himalaya (Hy mã lạp sơn) đến cung vua để chào mừng và xem tướng Thái tử. Gặp Thái tử, đạo sĩ Asita bỗng nhiên chắp tay vái chào với thái độ hết sức cung kính. Ðạo sĩ tuy cuời mà vẻ mặt thoáng buồn. Ðược hỏi vì cớ sao, Ðạo sĩ Asita trả lời là ông mừng vì Thái tử tương lai sẽ thành Phật, bậc giác ngộ và thượng, nhưng ông buồn vì ông tuổi đã quá cao, ắt phải qua đời mà không được vị Phật tương lai trực tiếp giáo huấn, giác ngộ.
Trong
kinh Sutta-Nipata (Kinh Tập, 101), có kể truyện đạo sĩ Asita đang tu trên núi
Tuyết sơn, được chư Thiên mách bảo, bèn xuống núi, đến thành Kapilavastu xem
tướng cho Thái tử.
"Thấy Thái tử chói sáng
Rực rỡ như vàng chói,
Trong lò đúc nấu vàng,
Ðược thợ khéo luyện thành
Bừng sáng và rực rỡ,
Với dung sắc tuyệt mỹ...
Sau khi thấy Thái tử,
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như sao Ngưu,
Vận hành giữa hư không,
Chói sáng như mặt trời,
Giữa trời thu mây tạnh.
Ấn sĩ tâm hân hoan
Ðược hỷ lạc rộng lớn".
Rực rỡ như vàng chói,
Trong lò đúc nấu vàng,
Ðược thợ khéo luyện thành
Bừng sáng và rực rỡ,
Với dung sắc tuyệt mỹ...
Sau khi thấy Thái tử,
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như sao Ngưu,
Vận hành giữa hư không,
Chói sáng như mặt trời,
Giữa trời thu mây tạnh.
Ấn sĩ tâm hân hoan
Ðược hỷ lạc rộng lớn".
Và đạo sĩ
Asita nói là Thái tử tương lai sẽ tu chứng Phật quả, vì lòng từ thương xót
chúng sanh mà truyền bá chánh pháp trên thế gian nầy.
"Thái tử này sẽ chứng,
Tối thượng quả Bồ đề
Sẽ chuyển bánh xe Pháp,
Thấy thanh tịnh tối thẳng
Vì lòng từ thương xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống phạm hạnh,
Ðược truyền bá rộng rãi".
Tối thượng quả Bồ đề
Sẽ chuyển bánh xe Pháp,
Thấy thanh tịnh tối thẳng
Vì lòng từ thương xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sống phạm hạnh,
Ðược truyền bá rộng rãi".
Nhưng vì
nghĩ mình đã già, không còn sống được bao lâu nữa, để có thể trực tiếp nghe Ðức
Phật thuyết pháp, cho nên đạo sĩ buồn và nói:
"Thọ mạng ta ở đời,
Còn lại không bao nhiêu,
Ðến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta sẽ không nghe Pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ,
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau..." (Kinh Tập, 103)
Còn lại không bao nhiêu,
Ðến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta sẽ không nghe Pháp,
Bậc tinh cần vô tỷ,
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau..." (Kinh Tập, 103)
3. Cuộc sống của Thái tử trong thời niên thiếu
Thái Tử Si Ðác Ta được nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục một cách toàn diện về hai mặt: văn chương và võ nghệ.
Thái Tử Si Ðác Ta được nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục một cách toàn diện về hai mặt: văn chương và võ nghệ.
Khi Thái
tử lên bảy tuổi, những thầy giáo giỏi nhất trong xứ được mời đến hoàng cung dạy
cho Thái tử các môn học thế gian như Thanh minh (ngôn ngữ học và văn học), Công
xảo minh (Công kỹ nghệ học), Y phương minh (môn học chữa bịnh), Nhân minh (Luận
lý học), và Nội minh (Ðạo học). Về Ðạo học, Thái tử được dạy về 4 sách Thánh
Veda, là các sách Thánh của Bà la môn giáo. Sách kể rằng: chỉ trong khoảng thời
gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học thông thạo 5 môn học trên và 4 sách Thánh
Veda. Ðến năm 13 tuổi, Thái tử học võ thuật, theo truyền thống giòng giõi đẳng
cấp võ tướng (Ksatryas, Sát đế lỵ). Nhờ có sức khỏe phi thường, Thái tử học môn
võ gì cũng giỏi; về môn bắn cung, sách kể rằng, trong một cuộc hội thi, Thái tử
đã bắn một mũi tên xuyên 7 lớp trống đồng, trong khi người giỏi nhất tại cuộc
thi chỉ bắn xuyên được ba lớp trống đồng.
Vào tuổi
16, Thái tử cưới công chúa Yasodhara (Da du đà la), đồng lứa tuổi với Thái tử.
Và trong gần 13 năm, sau ngày cưới, Thái tử sống một cuộc đời hạnh phúc trong
nhung lụa, vô tư, không biết gì tới mọi nỗi khổ và bất hạnh ở đời. Về quãng đời
ấy của Ngài, Ðức Phật kể lại như sau với các Tỷ kheo, đệ tử của Ngài:
"Này
các Tỷ kheo, Ta được nuôi dưỡng tế nhị, quá mức tế nhị. Trong cung của Phụ
vương Ta, các hồ nước được xây lên, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có
hoa sen trắng, tất cả đều phục vụ cho Ta. Không một hương chiên đàn nào Ta
dùng, này các Tỳ kheo, là không từ Kasi đến. Bằng vải Kasi là khăn của Ta, này
các Tỳ kheo, bằng vải Kasi là áo cánh, bằng vải Kasi là áo lót, bằng vải Kasi
là áo khoác ngoài. Ðêm và ngày, một lọng trắng được che trên đầu Ta để tránh xúc
chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay sương. Này các Tỳ kheo, ba lâu đài được xây dựng
cho Ta, một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một cái cho mùa mưa. Và Ta,
này các Tỳ kheo, tại lâu đài mùa mưa, Ta được các vũ nhạc công đờn, múa hát
xung quanh Ta..." (Tăng Chi 1, 161 - 162).
4. Quyết tâm xuất gia tầm đạo
Thế nhưng, với thời gian, do năng khiếu suy tư sâu sắc và lòng thương người bẩm sanh, Thái tử không thể nào cam tâm một mình sống mãi trong nhung lụa, giữa một xã hội bất công, một thế giới đau khổ. Thái tử sớm giác ngộ về tính tạm thời, tầm thường của hạnh phúc vật chất thế gian và có ý chí xuất gia cầu đạo giải thoát, tìm ra con đường cứu vớt chúng sanh ra khỏi già, đau, chết và mọi nỗi bất hạnh khác của đời người.
Thế nhưng, với thời gian, do năng khiếu suy tư sâu sắc và lòng thương người bẩm sanh, Thái tử không thể nào cam tâm một mình sống mãi trong nhung lụa, giữa một xã hội bất công, một thế giới đau khổ. Thái tử sớm giác ngộ về tính tạm thời, tầm thường của hạnh phúc vật chất thế gian và có ý chí xuất gia cầu đạo giải thoát, tìm ra con đường cứu vớt chúng sanh ra khỏi già, đau, chết và mọi nỗi bất hạnh khác của đời người.
Một ngày
nọ, Thái tử đi ra ngoài thành dạo chơi và lần đầu tiên trong đời được tiếp xúc
với những sự thật đen tối và đáng sợ: Thái tử lần lượt gặp một người già yếu,
một người bệnh tật, một xác chết và cuối cùng là một vị tu sĩ với dung sắc giải
thoát, khoan thai đi trên đường. Thái tử nghiệm thấy mình dù là Thái tử con
vua, cũng không thể thoát khỏi cảnh già, đau, và chết; những hình ảnh siêu
thoát của vị Tu sĩ đã giúp Thái tử sớm thấy được con đường dẫn đến giác ngộ,
vĩnh viễn khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời người, con đường dẫn tới
cõi Niết bàn bất tử.
Từ đó,
Thái tử nuôi dưỡng quyết tâm từ bỏ gia đình, xuất gia cầu đạo. Nhưng, một tin
đến, khiến Thái tử không vui: công chúa Yasodhara mới hạ sinh một con trai.
Thái tử nói: "Một trở ngại (ràhu) đã được sanh, một ràng buộc đã xãy
ra". Nhân đó, ông nội, vua cha Suddhodana đặt tên cháu là Ràhula (La hầu
la).
5. Sự từ bỏ vĩ đại
Lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa cho Thái tử, lòng nặng chĩu tình thương chúng sanh chìm đắm trong bể khổ và Thái tử càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, tìm con đường cứu khổ cho muôn loài. Thế rồi vào một đêm Thái tử ra lệnh cho người nô bộc trong thành là Channa (Xa nặc) thắt con ngựa Kantaka (Kiền trắc). Trước khi xuất phát, Thái tử đi dọc theo hành lang nội cung, đến trước phòng công chúa Yasodhara (Da du đà la) và người con trai đang ngủ thiếp. Thái tử hé cửa nhìn vào, Thái tử rất yêu thương người vợ và con trai của mình, nhưng đối với nhân loại đau khổ bất hạnh, lòng thương xót của Thái tử lại còn da diết hơn. Sau đó, Thái tử một mình lên ngựa ra đi, vượt khỏi hoàng thành, theo sau, chỉ có người nô bộc trung thành Channa.
Lâu đài, cung điện không còn là nơi ở thích hợp nữa cho Thái tử, lòng nặng chĩu tình thương chúng sanh chìm đắm trong bể khổ và Thái tử càng thêm quyết tâm xuất gia cầu đạo, tìm con đường cứu khổ cho muôn loài. Thế rồi vào một đêm Thái tử ra lệnh cho người nô bộc trong thành là Channa (Xa nặc) thắt con ngựa Kantaka (Kiền trắc). Trước khi xuất phát, Thái tử đi dọc theo hành lang nội cung, đến trước phòng công chúa Yasodhara (Da du đà la) và người con trai đang ngủ thiếp. Thái tử hé cửa nhìn vào, Thái tử rất yêu thương người vợ và con trai của mình, nhưng đối với nhân loại đau khổ bất hạnh, lòng thương xót của Thái tử lại còn da diết hơn. Sau đó, Thái tử một mình lên ngựa ra đi, vượt khỏi hoàng thành, theo sau, chỉ có người nô bộc trung thành Channa.
Ra đi,
Thái tử từ bỏ tất cả, phụ vương, ngai vàng, vợ và con, cuộc sống đầy đủ và hạnh
phúc của một hoàng tử. Không phải là sự hy sinh từ bỏ của một người già, đau
ốm, một người nghèo, bệnh tật, ngán ngẫm cuộc đời, mà là sự hy sinh từ bỏ của
một vị hoàng tử đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý giàu sang. Quả
thật đó là một sự từ bỏ, hy sinh vĩ đại, có một không hai trong lịch sử loài
người.
Năm ấy,
Thái tử tròn 29 tuổi. Khi tới bờ sông Anomà, Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo
râu, tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Channa, lệnh cho Channa trở về. Còn
Thái tử một mình ra đi, với bộ áo màu vàng đơn giản của người tu sĩ, từ nay
cuộc sống không nhà của người xuất gia cầu đạo. Ngài không nơi ở cố định. Khi
thì ngồi dưới bóng cây, khi thì nằm nghỉ qua đêm trong một hang đá. Chân không
và đầu để trần, Ngài đi bình thản giữa nắng nóng cũng như trong sương đêm lạnh,
tất cả mọi năng lực và ý chí của Ngài đều hướng tới lý tưởng cao cả tìm ra sự
thật tối hậu, lý lẽ của sống và chết, ý nghĩa của nhân sinh, của cuộc đời, con
đường dẫn tới giải thoát, cõi Niết bàn bất tử.
6. Ðến học hai đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputta
Thời bấy giờ, tình hình chính trị tại các xứ ở Ấn Ðộ khá ổn định, nhiều nhà tri thức lỗi lạc, xuất gia tu đạo, trở thành đạo sư tâm linh với nhiều đệ tử theo học. Thái tử Si Ðác Ta, trên đường đi tầm đạo, đã tới thụ giáo với hai đạo sư danh tiếng nhất thời bấy giờ là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Cả hai người đều tu theo phép Du già và đều chứng được những cấp thiền định cao nhất thời bấy giờ. Alara Kalama chứng được cấp thiền Vô sở hữu xứ, còn Uddaka Ramaputta thì chứng được cấp thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðó là hai cấp thiền thuộc Vô sắc giới, hai cấp thiền cao nhất mà tu sĩ Du già thời bấy giờ chứng đạt được.
Thời bấy giờ, tình hình chính trị tại các xứ ở Ấn Ðộ khá ổn định, nhiều nhà tri thức lỗi lạc, xuất gia tu đạo, trở thành đạo sư tâm linh với nhiều đệ tử theo học. Thái tử Si Ðác Ta, trên đường đi tầm đạo, đã tới thụ giáo với hai đạo sư danh tiếng nhất thời bấy giờ là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Cả hai người đều tu theo phép Du già và đều chứng được những cấp thiền định cao nhất thời bấy giờ. Alara Kalama chứng được cấp thiền Vô sở hữu xứ, còn Uddaka Ramaputta thì chứng được cấp thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ðó là hai cấp thiền thuộc Vô sắc giới, hai cấp thiền cao nhất mà tu sĩ Du già thời bấy giờ chứng đạt được.
Nhưng chỉ
một thời gian ngắn tu học, Thái tử cũng dễ dàng đạt được hai cấp thiền nói
trên, và được hai đạo sư mời ở lại, cùng với họ lãnh đạo chúng đệ tử. Thái tử
biết rõ, các cấp thiền mà Ngài chứng được chưa phải là chân lý tối hậu, Niết
bàn, sự chấm dứt sanh tử và mọi khổ đau. Cho nên, Ngài từ chối lịch sự, rồi lại
lên đường tiếp tục cuộc hành trình cầu đạo của mình. Qua thực nghiệm, Ngài thấy
chân lý tối hậu, Niết Bàn, chấm dứt mọi đau khổ của sinh tử luân hồi, không thể
cầu được ở bên ngoài, ở bất kỳ một bậc Ðạo sư nào. Chân lý tối hậu đó phải
chính do Ngài tự tìm lấy, tự chứng ngộ lấy ở bên trong nội tâm của Ngài, không
thể dựa vào một tha lực nào khác.
7. Tu khổ hạnh sáu năm
Thái tử đến một nơi gọi là Uruvela, thị trấn của Senàni. Ngài tìm được một khoảnh đất đẹp và mát, có con sông nhỏ chạy qua giữa bờ cát trắng. Gần đây, lại có làng nhỏ, có thể đi khất thực hàng ngày. Ðúng là một nơi yên tĩnh, đẹp đẽ, rất thích hợp với trầm tư mặc tưởng và tu tập thiền định. Cùng đến nơi đây tu tập với Thái tử còn có các tu sĩ Kondana (Kiều Trần Như), Bhadhya, Vappa, Mahanama và Asaji. Kondanna vốn là vị đạo sĩ trẻ tuổi nhất, trong số các đạo sĩ được vua Suddhodana mời tới kinh đô để xem tướng Thái tử, lúc Ngài mới đản sanh.
Thái tử đến một nơi gọi là Uruvela, thị trấn của Senàni. Ngài tìm được một khoảnh đất đẹp và mát, có con sông nhỏ chạy qua giữa bờ cát trắng. Gần đây, lại có làng nhỏ, có thể đi khất thực hàng ngày. Ðúng là một nơi yên tĩnh, đẹp đẽ, rất thích hợp với trầm tư mặc tưởng và tu tập thiền định. Cùng đến nơi đây tu tập với Thái tử còn có các tu sĩ Kondana (Kiều Trần Như), Bhadhya, Vappa, Mahanama và Asaji. Kondanna vốn là vị đạo sĩ trẻ tuổi nhất, trong số các đạo sĩ được vua Suddhodana mời tới kinh đô để xem tướng Thái tử, lúc Ngài mới đản sanh.
Thời bấy
giờ, ở Ấn Ðộ có tập tục và niềm tin rằng, người nào cầu đạo giải thoát, đều
phải kiên trì tu khổ hạnh, ép xác. Cũng theo truyền thống đó, Thái tử cùng với
5 người bạn đồng tu trong 6 năm ròng rã, kiên trì khổ hạnh ép xác tới mức con
người Thái tử gầy khô như bộ xương, đôi mắt sâu hoẵm xuống, sức khỏe giảm sút
đến nỗi Ngài không còn đi vững được nữa. Ngài nghiệm thấy, càng kiên trì khổ
hạnh, chân lý tối hậu như càng lùi ra xa, tâm trí càng mê mờ, thân thể càng suy
yếu. Ngài thấy rõ, khổ hạnh, ép xác không phải là con đường thoát khổ và cứu
khổ.
Thái tử
quyết định ăn uống bình thường trở lại. Năm người bạn đồng tu, vốn đặt niềm tin
và hy vọng tuyệt đối vào Thái tử, tưởng rằng Thái tử đã thoái chí, bèn rời bỏ
Thái tử, đến vườn Nai ở Isipatana gần thành phố Banares để tiếp tục tu hành. Họ
nói rằng, Thái tử Si Ðác Ta đã trở về với cuộc sống tiện nghi và dục lạc vật
chất..
8. Chứng Bốn Chân Lý Tối Hậu
Ở lại một mình, Thái tử quyết tâm tự mình phấn đấu để chứng ngộ chân lý tối hậu. Ngài lấy lại sức, nhờ uống bát sữa, do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sau đó, Ngài tắm ở sông Neranjara (Ni Liên Thuyền). Tối đến, Ngài đến ngồi dưới gốc cây Pippala, sau này được đổi tên là cây Bồ đề, để đánh dấu sự kiện thành đạo vĩ đại của Ngài.
Ở lại một mình, Thái tử quyết tâm tự mình phấn đấu để chứng ngộ chân lý tối hậu. Ngài lấy lại sức, nhờ uống bát sữa, do một thôn nữ tên là Sujata cúng dường, sau đó, Ngài tắm ở sông Neranjara (Ni Liên Thuyền). Tối đến, Ngài đến ngồi dưới gốc cây Pippala, sau này được đổi tên là cây Bồ đề, để đánh dấu sự kiện thành đạo vĩ đại của Ngài.
Với tâm
định tỉnh, nhu nhuyến, trong sáng như gương, Ngài suy tư về lẽ sống chết, về
những nguyên nhân tích tập dẫn tới luân hồi sanh tử và con đường giải thoát,
dẫn tới Niết bàn, Ngài nhớ lại, thấy rõ các kiếp sống trước đây của mình, một
kiếp, hai kiếp cho tới hàng trăm ngàn kiếp. Ngài nhớ lại, thấy rõ các chu kỳ
thành hoại của một thế giới, nhiều thế giới. Ngài thấy rõ các chúng sanh, tùy
theo nghiệp nặng nhẹ, thiện ác so mình tạo ra, luân hồi như thế nào trong các
cõi sống, từ thời vô thủy cho tới ngày nay. Ngài thấy rõ, biết rõ tự bản thân
Ngài đã đoạn trừ hết mọi tham ái, lậu hoặc, vô minh, đã được giải thoát và giác
ngộ, và thành tựu đạo Vô thượng. Ngài đã thành Phật.
Sau này,
Ðức Phật đã kể lại cho các đệ tử Tỳ kheo nghe về cảnh giới chứng ngộ của mình
như sau: "Nầy các Tỳ kheo! Ta tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại
của cái bị sanh, tìm cầu cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết
bàn, và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết
bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại của cái bị già, tìm cầu cái
không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn và đã chứng được cái
không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị bệnh, sau khi
biết rõ nguy hại của cái bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các
khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ nguy hại của cái bị chết,
tìm cầu cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách. Niết bàn và đã chứng
được cái không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn... Tri và Kiến
khởi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị giao động. Nay là đời sống cuối
cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa". (Kinh Thánh Cầu, Kinh Trung Bộ I,
268).
Như vậy,
sau 6 năm gian khổ, kiên trì, không mệt mỏi, vào năm 35 tuổi. Thái Tử Si Ðác Ta
đã chứng ngộ chân lý cứu kinh vô thượng và trở thành Ðức Phật, bậc Toàn giác mà
sự xuất hiện là chuyện hy hữu nhất trên đời này.
Từ nay,
thế gian tôn xưng Ngài là Ðức Phật Gotama hay là Ðức Phật Thích Ca Cồ Ðàm. Từ
Pali, "Buddha" (Phật Ðà) có chữ gốc "Buddh" là hiểu biết,
giác ngộ chân lý tối hậu, cứu kinh. Sách Pali gọi Ngài là Sammà Sambuddha, với
nghĩa là bậc Toàn giác, không gì không biết, không thấy; bậc Thánh, không những
giác ngộ đầy đủ cho bản thân mình, mà còn giác ngộ đầy đủ cho tất cả mọi người khác,
cho tất cả mọi chúng sanh.
9. Ðức Phật do dự trước khi chuyển bánh xe Pháp
Chuyển Pháp Luân là chuyển bánh xe Pháp, tức là truyền bá cho thế gian biết về đạo Pháp mà Phật đã chứng ngộ. Ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây Bồ đề, sau khi đã chứng quả giác ngộ vô thượng, Ðức Phật có suy nghĩ như sau:
Chuyển Pháp Luân là chuyển bánh xe Pháp, tức là truyền bá cho thế gian biết về đạo Pháp mà Phật đã chứng ngộ. Ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây Bồ đề, sau khi đã chứng quả giác ngộ vô thượng, Ðức Phật có suy nghĩ như sau:
"Pháp
này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao
thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người có trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng
nầy thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Ðối với quần chúng ưa ái
dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý 'duyên khởi
ra các pháp' (Paticcasamuppada): sự kiện nầy thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ
tất cả các hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn.
Nếu nay Ta thuyết pháp thì các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ
não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta" (Trung Bộ I, 268 - 269).
Nhưng rồi
Ðức Phật nhìn quanh một lượt khắp thế gian với con mắt trí tuệ và suy nghĩ
rằng:
"...
Có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn
căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự
nguy hiểm phải tái sinh ở thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi
lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hay hồ sen trắng, sanh ra dưới nước,
lớn lên dưới nước, không vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có
một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới
nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nưóc thấm ướt. Cũng vậy, nầy các Tỳ
kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm
bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy,
khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh ở thế giới khác và sự nguy
hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và nầy các Tỳ kheo, Ta nói lên bài kệ sau
đây:
"Cửa bất tử rộng mở
Cho những ai chịu nghe
Hãy từ bỏ tin tâm
Không chính xác của mình.." (Trung Bộ I, 271)
Cho những ai chịu nghe
Hãy từ bỏ tin tâm
Không chính xác của mình.." (Trung Bộ I, 271)
Rồi Ðức
Phật quyết định sẽ gióng lên tiếng trống của Pháp, sẽ chuyển bánh xe Pháp, sẽ
tuyên bố với thế gian, với loài người và loài Trời, con đường đạo cứu khổ và
diệt khổ, con đường đạo dẫn tới cõi bất tử, cõi Niết Bàn. Thế là bánh xe Pháp
bắt đầu chuyển.
10. Ðức Phật giảng Pháp đầu tiên tại Vườn Nai, gần thành Ba La
Nại (Benares)
Như đã nói trên, năm tu sĩ, bạn đồng tu của Thái tử, ở Uruvela, nay vẫn tiếp tục tu khổ hạnh ở vườn Nai gần thành phố Benares. Họ rời bỏ Thái tử, vì họ tưởng rằng Thái tử đã thoái chí, giữa đường bỏ cuộc. Nhưng thực ra, sau 6 năm tu khổ hạnh, Thái Tử đã thực nghiệm và thấy rõ tất cả sự vô ích và vô lý của lối tu khổ hạnh, ép xác chỉ làm con người suy yếu về thân xác, mệt mỏi về tinh thần. Và Thái tử ở lại một mình, kiên trì, phấn đấu và cuối cùng đã giác ngộ, thành Phật dưới gốc cây Bồ đề.
Như đã nói trên, năm tu sĩ, bạn đồng tu của Thái tử, ở Uruvela, nay vẫn tiếp tục tu khổ hạnh ở vườn Nai gần thành phố Benares. Họ rời bỏ Thái tử, vì họ tưởng rằng Thái tử đã thoái chí, giữa đường bỏ cuộc. Nhưng thực ra, sau 6 năm tu khổ hạnh, Thái Tử đã thực nghiệm và thấy rõ tất cả sự vô ích và vô lý của lối tu khổ hạnh, ép xác chỉ làm con người suy yếu về thân xác, mệt mỏi về tinh thần. Và Thái tử ở lại một mình, kiên trì, phấn đấu và cuối cùng đã giác ngộ, thành Phật dưới gốc cây Bồ đề.
Sau khi
đã quyết định truyền bá đạo lý cứu khổ cho thế gian, vì lòng thương xót loài
người và loài trời, Ðức Phật nghĩ ngay tới 2 vị thầy cũ của mình là Alara
Kalama và Uddaka Ramaputta, nhưng cả 2 ông này đều đã qua đời cách đây không
lâu. Với Phật nhãn, Ðức Phật thấy năm người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở
tại vườn Nai gần Benarès và quyết định họ sẽ là những người đầu tiên được nghe
giáo pháp của Ngài.
Rồi Ðức
Phật lên đường đi Benarès. Tại đây, ở vườn Nai gần Benarès, Ðức Phật thuyết
pháp lần đầu tiên cho 5 người bạn đồng tu ngày trước của mình. Sự kiện đáng ghi
nhớ này diễn ra vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau Ðức Phật thành đạo.
Sau nầy, nó được biểu trưng một cái bánh xe, có 2 con nai nâng đỡ hai bên.
Hai con
nai biểu trưng cho địa điểm thuyết pháp, Vườn Nai, cũng gọi là Lộc Uyển. Bánh
xe - Dhammacakka - tức là bánh xe Pháp, sách Hán dịch là Pháp luân. Cả đầu đề
bài kinh là Dhammacakkappavattana, có nghĩa là "chuyển bánh xe Pháp".
11. Nội dung Kinh Chuyển Bánh Xe Pháp
Trong bài kinh này, Ðức Phật mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một cực đoan là đam mê thú vui nhục dục thế gian, thực ra chỉ là những cái tầm thường, nhất thời, ngăn cản mọi tiến bộ tâm lính. Một cực đoan thứ hai là khổ hạnh, ép xác vì nó làm mệt mỏi tinh thần, mê mờ trí tuệ, do đó cũng có hại, vô ích. Ðức Phật khuyến cáo nên rời bỏ hai cực đoan trên, và theo con đường Trung Ðạo dẫn tới cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và giải thoát tối hậu. Ðó là con đường đạo tám nhánh nổi tiếng, sách Hán thường dịch là Bát Chánh Ðạo:
Trong bài kinh này, Ðức Phật mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên mắc vào hai cực đoan: một cực đoan là đam mê thú vui nhục dục thế gian, thực ra chỉ là những cái tầm thường, nhất thời, ngăn cản mọi tiến bộ tâm lính. Một cực đoan thứ hai là khổ hạnh, ép xác vì nó làm mệt mỏi tinh thần, mê mờ trí tuệ, do đó cũng có hại, vô ích. Ðức Phật khuyến cáo nên rời bỏ hai cực đoan trên, và theo con đường Trung Ðạo dẫn tới cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và giải thoát tối hậu. Ðó là con đường đạo tám nhánh nổi tiếng, sách Hán thường dịch là Bát Chánh Ðạo:
1. Chánh tri kiến: Thấy biết chân chánh.
2. Chánh tư duy: Suy nghĩ chân chánh, ý chí chân
chánh.
3. Chánh ngữ: Nói năng chân chánh, tức là không nói
dối, không nói ác, không nói chia rẽ, không nói lời vô nghĩa.
4. Chánh nghiệp: Hành động chân chánh, tức là không
sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh, không rượu chè.
5. Chánh mạng: Sinh sống bằng nghề chân chánh,
không phải bằng nghề bất lương, như buôn bán lừa đảo, buôn vũ khí và thuốc độc,
buôn bán nô tỳ...
6. Chánh tinh tấn: Siêng năng chân chánh, diệt bỏ
điều bất thiện, làm mọi điều tốt lành.
7. Chánh niệm: Nghĩ nhớ chân chánh, không nghĩ nhờ
điều tà vạy, ác xấu, mê lầm.
8. Chánh định: Tập trung tư tưởng chân chánh, không
để tư tưởng tán loạn, chạy theo dục vọng.
Con đường
tám nhánh là con đường đạo chân chánh, dẫn tới chấm dứt mọi đau khổ, phát khởi
trí tuệ, đưa đến Niết bàn, là sự giải thoát vĩnh viễn khỏi vòng sống chết luân
hồi, là sự thanh tịnh tuyệt đối và an lạc tuyệt đối.
Trong bài
thuyết pháp đầu tiên này, Ðức Phật giảng về bốn chân lý cao cả, cũng gọi là bốn
chân lý Thánh, bởi vì chúng được phát hiện và tuyên thuyết bởi bậc thánh vĩ đại
nhất là Ðức Phật. Ðó là chân lý về sự khổ (sách Hán gọi là Khổ đế), chân lý về
nguyên nhân của khổ (Tập đế), chân lý về diệt khổ (Diệt đế), chân lý về con
đường đạo diệt khổ (Ðạo đế).
Nghe xong
bài thuyết pháp này, và một bài thứ hai có đầu đề "Anttalakkhana
sutta", bàn về thuyết vô ngã (không có cái Ta), năm vị tu sĩ ở vườn Lộc
Uyển được giác ngộ và không bao lâu trở thành A la hán.
12. Ðức Phật giác ngộ cho Yasa và những người bạn
Gần Benares, có con trai người triệu phú tên là Yasa, tuy sống cuộc đời đầy đủ xa hoa, nhưng lại sớm chán cảnh sốngv thế gian tầm thường vô vị. Yasa tìm đến Ðức phật, bộc lộ với Ðức Phật tâm trạng chán chường của mình, và được Ðức Phật thuyết pháp về hạnh bố thí, về nếp sống đạo đức, về các cõi Trời, về nguy hại của dục lạc thế gian, về hạnh phúc của nếp sống Thánh, hỷ xả, không tham trước. Và sau đó, Ðức Phật giảng cho Yasa vế bốn chân lý cao cả: sự khổ, nguyên nhân của khổ, cảnh giới Niết bàn an lạc và con đường đạo tám nhánh dẫn tới Niết bàn.
Gần Benares, có con trai người triệu phú tên là Yasa, tuy sống cuộc đời đầy đủ xa hoa, nhưng lại sớm chán cảnh sốngv thế gian tầm thường vô vị. Yasa tìm đến Ðức phật, bộc lộ với Ðức Phật tâm trạng chán chường của mình, và được Ðức Phật thuyết pháp về hạnh bố thí, về nếp sống đạo đức, về các cõi Trời, về nguy hại của dục lạc thế gian, về hạnh phúc của nếp sống Thánh, hỷ xả, không tham trước. Và sau đó, Ðức Phật giảng cho Yasa vế bốn chân lý cao cả: sự khổ, nguyên nhân của khổ, cảnh giới Niết bàn an lạc và con đường đạo tám nhánh dẫn tới Niết bàn.
Cha của
Yasa, trên đường đi tìm con trai, cũng đến Vườn Nai và được nghe Phật thuyết
pháp, ông xin Phật cho quy y và trở thành người đệ tử tại gia đầu tiên của
Phật. Còn Yasa thì xin Phật cho xuất gia và không bao lâu chứng quả A la hán.
Khi Ðức Phật đến thăm nhà cha của Yasa theo lời thỉnh cầu của ông này, thì cả
người mẹ và người vợ cũ của Yasa cũng xin quy y làm đệ tử tại gia của Ðức Phật.
Bốn người bạn của Yasa là Vimala, Subaha, Tunnaji và Barampati, noi gương Yasa
cũng xin xuất gia, và không bao lâu đều chứng quả A la hán.
Ngoài ra,
hơn năm mươi người bạn khác của Yasa, từ các gia đình và địa phương khác nhau,
nghe tin Yasa chứng được Thánh quả, cũng đều tụ tập về đây xin xuất gia theo
Ðức Phật, và sau một thời gian, tất cả đều chứng quả A la hán.
13. Ðoàn Tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên
Bấy giờ, Ðức Phật có sáu mươi đệ tử đều là A la hán. Ngày quyết định phái họ đi khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Trước khi họ lên đường, Ðức Phật đã động viên họ với lời lẽ như sau:
Bấy giờ, Ðức Phật có sáu mươi đệ tử đều là A la hán. Ngày quyết định phái họ đi khắp nơi để truyền bá chánh pháp. Trước khi họ lên đường, Ðức Phật đã động viên họ với lời lẽ như sau:
"Hỡi
các Tỳ kheo, Ta đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất
gian".
"Các
ngươi cũng vậy, hỡi các Tỳ kheo, cũng đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế
gian và xuất thế gian".
"Hãy
đi! Hỡi các Tỳ kheo, vì lợi lạc của số đông, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng
lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của loài Trời và loài người.
Các người hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng. Hãy truyền bá đạo
pháp, hỡi các Tỳ kheo. Ðạo pháp toàn thiện, ở phần đầu, phần giữa cũng như phần
cuối, cả trong ý tứ và lời văn, hãy tuyên bố về cuộc sống Thánh, toàn thiện và
thanh tịnh..." (Mahavagga 19).
Tỳ kheo,
dịch âm từ chữ Pali "Bhikkhu", nghĩa là "Người khất thực".
Ðức Phật, lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, với 60 người học trò đã chứng
quả A la hán, tổ chức thành một tăng đoàn những tu sĩ khất thực, không có nhà ở
cố định, không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và bình
bát để xin ăn... Thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và cuộc sống thánh hạnh, tự
mình nêu gương sáng về cuộc sống Thánh hạnh và giải thoát, đó là sự nghiệp, là
nội dung công tác chủ yếu của Tăng đoàn đầu tiên, do Ðức Phật đích thân thành
lập và chỉ đạo.
14. Giác ngộ cho ba mươi thanh niên
Sau khi Ðức Phật phái các đệ tử mỗi người đi một ngã để truyền bá chánh pháp, Ngài cũng lên đường đến Uruvela. Dọc đường, Ngài ngồi nghỉ ở một gốc cây, trong một khu rừng nhỏ. Lúc bấy giờ, có ba muơi thanh niên nhà giàu, đem vợ theo đến vui chơi giải trí trong chính khu rừng đó. Trong số này, có một thanh niên chưa vợ. đem theo một kỹ nữ. Trong khi họ đang vui đùa, thì người kỹ nữ lẫn trốn với nhiều của cải và đồ trang sức của họ. Các thanh niên lùng bắt người kỷ nữ trong khu rừng, gặp Ðức Phật và hỏi Ngài có thấy người phụ nữ trẻ qua đây không?
Sau khi Ðức Phật phái các đệ tử mỗi người đi một ngã để truyền bá chánh pháp, Ngài cũng lên đường đến Uruvela. Dọc đường, Ngài ngồi nghỉ ở một gốc cây, trong một khu rừng nhỏ. Lúc bấy giờ, có ba muơi thanh niên nhà giàu, đem vợ theo đến vui chơi giải trí trong chính khu rừng đó. Trong số này, có một thanh niên chưa vợ. đem theo một kỹ nữ. Trong khi họ đang vui đùa, thì người kỹ nữ lẫn trốn với nhiều của cải và đồ trang sức của họ. Các thanh niên lùng bắt người kỷ nữ trong khu rừng, gặp Ðức Phật và hỏi Ngài có thấy người phụ nữ trẻ qua đây không?
Ðức Phật
hỏi: "Hỡi các thanh niên, tìm người kỹ nữ tốt, hay là tìm thấy bản thân
mình tốt hơn?"
Họ đều
trả lời là tìm thấy bản thân mình tốt hơn.
Ðức Phật
nói: "Thế thì được! Các bạn trẻ, hãy ngồi lại đây, Ta sẽ thuyết pháp
cho".
Các thanh
niên kính lễ Phật với thái độ trân trọng rồi ngồi xuống nghe Phật giảng pháp.
Nhờ nghe pháp, họ được giác ngộ và xin phật cho xuất gia làm Tỳ kheo.
15. Ba anh em ông Kassapa (Ca Diếp) được giác ngộ
Gần Uruvela, có ba tu sĩ khổ hạnh là ba anh em ông Kassapa: Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa, và Gaya Kassapa. Người anh lớn, Uruvela Kassapa có 500 đệ tử, hai người em có 300 và 200 đệ tử. Ba anh em ông Kassapa đều là những đạo sĩ có danh vọng lớn ở xứ Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela Kassapa, ông này thờ thần lửa, và tự cho mình đã chứng quả A la hán. Ðức Phật lại gặp ông đầu tiên và xin được phép ngủ qua đêm tại phòng riêng của ông này, ở đây có thờ một con rắn thiên rất độc. Ông Kassapa tưởng rằng Ðức Phật thế nào cũng bị con rắn thiêng cắn chết, nào ngờ chính con rắn bị Ðức Phật hàng phục bằng sức thần thông của Ngài. Cả ba anh em với số học trò đông đảo đều xin xuất gia theo Ðức Phật.
Gần Uruvela, có ba tu sĩ khổ hạnh là ba anh em ông Kassapa: Uruvela Kassapa, Nadi Kassapa, và Gaya Kassapa. Người anh lớn, Uruvela Kassapa có 500 đệ tử, hai người em có 300 và 200 đệ tử. Ba anh em ông Kassapa đều là những đạo sĩ có danh vọng lớn ở xứ Magadha, đặc biệt là người anh cả Uruvela Kassapa, ông này thờ thần lửa, và tự cho mình đã chứng quả A la hán. Ðức Phật lại gặp ông đầu tiên và xin được phép ngủ qua đêm tại phòng riêng của ông này, ở đây có thờ một con rắn thiên rất độc. Ông Kassapa tưởng rằng Ðức Phật thế nào cũng bị con rắn thiêng cắn chết, nào ngờ chính con rắn bị Ðức Phật hàng phục bằng sức thần thông của Ngài. Cả ba anh em với số học trò đông đảo đều xin xuất gia theo Ðức Phật.
Sau đó,
cả đoàn người cùng đi với Ðức Phật đến một nơi gọi là Gaya Sisa, không cách xa
Uruvela mấy. Ở đây, Phật giảng kinh Adittapariyaya Sutta. Nghe xong kinh này,
tất cả các Tỳ kheo có mặt đều chứng quả A la hán.
16. Sariputta (Xá Lợi Phất) và Moggalana (Mục Kiền Liên) trở
thành hai đệ tử hàng đầu của Ðức Phật
Gần thành Vương Xá (Rajagaha), tại làng Upatissa, có một thanh niên rất thông minh tên là Sariputla. Gia đình ông thuộc loại giàu có và danh tiếng nhất làng, cho nên o6ng cũng có tên là Upatissa. Tuy sống trong cảng giàu sang quyền quí, nhưng ông sớm cảm thấy tính trống rỗng, vô vị của cuộc sống thế tục. Ông cùng với người bạn thân là Moggalana, ở Kokita thường xuyên khi khắp nơi, tìm thầy học đạo.
Gần thành Vương Xá (Rajagaha), tại làng Upatissa, có một thanh niên rất thông minh tên là Sariputla. Gia đình ông thuộc loại giàu có và danh tiếng nhất làng, cho nên o6ng cũng có tên là Upatissa. Tuy sống trong cảng giàu sang quyền quí, nhưng ông sớm cảm thấy tính trống rỗng, vô vị của cuộc sống thế tục. Ông cùng với người bạn thân là Moggalana, ở Kokita thường xuyên khi khắp nơi, tìm thầy học đạo.
Ðấy cũng
là thời điểm, Ðức Phật phái các đệ tử đi truyền giáo. Sariputta được gặp A la
hán Assaji đang đi khất thực trong thàng Vương Xá và xúc động mạnh mẽ trước
dung mạo trang nghiêm và khí sắc giải thoát của vị A la hán trẻ tuổi này.
Sariputta đến gần và hỏi:
"Thưa
Ngài tôn kính! Các căn của Ngài thật an tịnh, màu da của Ngài thật trong sáng.
Ðược sự chỉ đạo của bậc đạo sư nào mà Ngài xuất gia? Bậc đạo sư của Ngài là ai?
Ngài theo giáo lý nào?"
A la hán
Assaji trả lời với thái độ khiêm tốn:
"Tôi
còn rất trẻ trong Tăng đoàn, thưa Ngài, và tôi không có khả năng thuyết pháp
được nhiều cho Ngài".
Nhưng vì
Tôn giả Xá Lợi Phất khẩn khoản yêu cầu, cho nên A la hán Assaji đọc câu kệ:
"Sự vật bắt nguồn từ nhân duyên
Ðức Như Lai nói rõ nhân duyên đó
Và bậc đạo sư cũng nói rõ
Sự vật đó tiêu diệt như thế nào".
Ðức Như Lai nói rõ nhân duyên đó
Và bậc đạo sư cũng nói rõ
Sự vật đó tiêu diệt như thế nào".
Ngài
Sariputta rất thông minh, chỉ mới nghe 2 câu kệ đầu đã chứng ngay Sơ quả. Sau
đó, Ngài về baó tin cho người bạn thân Moggalana, và cả hai người cùng đến yết
kiến Ðức Phật ở tu viện Veluvana. Ðức Phật thâu nhận hai ông vào Tăng chúng với
câu nói đơn giản: "Etha Bhikkhave!" (Hãy đến đây! Các Tỳ kheo).
Mười lăm
ngày sau đó, Sariputta chứng quả A la hán, khi nghe Ðức Phật giảng kinh Vedana
Pariggha cho du sĩ ngoại đạo Dighanakha, còn Mục Kiền Liên thì chứng quả A la
hán trước đó một tuần. Ngay chiều hôm Ngài Sariputta chứng quả A la hán, Ðức
Phật triệu tập Tăng chúng lại và tuyên bố hai Ngài là hai vị thượng thủ của
Tăng đoàn.
17. Ðức Phật về thăm gia đình
Thân phụ Ðức Phật, vua Suddhodana bây giờ đã già yếu, nghe tin Ðức Phật thành đạo và đang thuyết pháp ở thành Rajagaha (Vương Xá), vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả đến Rajagaha (Vương xá), thỉnh cầu Ðức Phật trở về thăm cố đô và gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua, đến Vương xá, đuợc nghe Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và chứng quả A la hán.
Thân phụ Ðức Phật, vua Suddhodana bây giờ đã già yếu, nghe tin Ðức Phật thành đạo và đang thuyết pháp ở thành Rajagaha (Vương Xá), vua rất nóng lòng được gặp lại con. Vua liền phái sứ giả đến Rajagaha (Vương xá), thỉnh cầu Ðức Phật trở về thăm cố đô và gia đình. Nhưng các sứ giả của Vua, đến Vương xá, đuợc nghe Phật thuyết pháp, đều xin xuất gia làm Tỳ kheo và chứng quả A la hán.
Vị sứ giả
thứ mười là Kaludayi, vốn là người bạn thân cũ của Ðức Phật, lúc Ngài cón là
Thái tử. Ông này đến Vương xá, nghe Phật nói pháp, cũng xin xuất gia và không
bao lâu chứng quả A la hán như chín vị sứ giả trước, Kaludayi không quên chuyển
tới Ðức Phật lời phụ vương mời Ðức Phật về thăm gia đình. Ðức Phật nhận lời,
lên đường cùng với đông đảo đệ tử.
18. Ðức Phật và Phụ vương Suddhodana
Ðức Phật và các đệ tử của Ngài được vua Suddhodana, quần thần và dân chúng đón tiếp rất long trọng. Ðược nghe Ðức Phật thuyết pháp, vua chứng ngay Sơ quả (Tư đà hoàn). Khi nghe bài thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai, Sakkadagami (Tư đà hàm), còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả (Sotapana - Tu đà hoàn). Lần thứ ba, Ðức Phật giảng kinh Dhammapala Jàtaka cho vua cha, và vua cha chứng quả Thánh thứ ba (Anagami - A na hàm). Sách kể rằng, sau nầy, trên giừơng bệnh, vua cha lại được Ðức Phật về thăm và giảng pháp. Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A la hán. Và sau bảy ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm Ðức Phật tròn 40 tuổi.
Ðức Phật và các đệ tử của Ngài được vua Suddhodana, quần thần và dân chúng đón tiếp rất long trọng. Ðược nghe Ðức Phật thuyết pháp, vua chứng ngay Sơ quả (Tư đà hoàn). Khi nghe bài thuyết pháp thứ hai, nhà vua chứng quả Thánh thứ hai, Sakkadagami (Tư đà hàm), còn bà dì Pajapati Gotami thì chứng Sơ quả (Sotapana - Tu đà hoàn). Lần thứ ba, Ðức Phật giảng kinh Dhammapala Jàtaka cho vua cha, và vua cha chứng quả Thánh thứ ba (Anagami - A na hàm). Sách kể rằng, sau nầy, trên giừơng bệnh, vua cha lại được Ðức Phật về thăm và giảng pháp. Lần nghe pháp cuối cùng này, vua chứng quả A la hán. Và sau bảy ngày tận hưởng lạc thú giải thoát, vua qua đời vào năm Ðức Phật tròn 40 tuổi.
19. Ðức Phật và Công chúa Yasodhara (Da Du Ðà La)
Công chúa Yasodhara (Da Du Ðà La) vốn là con gái vua Suppahuddha (Thiện Giác), đứng đầu dòng họ Koliya. Sau khi Thái tử rời bỏ hoàng cung, xuất gia cầu đạo, công chúa cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc áo vàng của người nữ tu sĩ, và tận tình nuôi người con trai là La Hầu La đến tuổi khôn lớn.
Công chúa Yasodhara (Da Du Ðà La) vốn là con gái vua Suppahuddha (Thiện Giác), đứng đầu dòng họ Koliya. Sau khi Thái tử rời bỏ hoàng cung, xuất gia cầu đạo, công chúa cũng bỏ hết đồ trang sức, mặc áo vàng của người nữ tu sĩ, và tận tình nuôi người con trai là La Hầu La đến tuổi khôn lớn.
Ngày thứ
hai Ðức Phật đến thành Kapilavastu, Ðức Phật cùng với đông đảo đệ tử đến dùng
bữa ăn trưa tại hoàng cung, theo lời mời của vua cha. Sau bữa tiệc, Ðức Phật
cùng với vua cha và hai người đệ tử thân cận, Sariputta và Moggalana đến phòng
công chúa. Sau khi Ðức Phật vào phòng và ngồi vào chỗ xếp sẵn, công chúa đảnh
lễ Phật với thái độ vô cùng cung kính. Ðức Phật giảng truyện bổn sanh
Candakinnara và nói: "Thưa phụ vương, không phải chỉ trong kiếp này, mà
trong một kiếp sống trước, công chúa cũng đã từng bảo vệ tôi và thủy chung với
tôi". Sau khi nhắc lại chuyện kiếp trước, Ðức Phật an ủi công chúa và từ
giã hoàng cung.
Sau khi
vua Suddhodana qua đời, bà dì là Pajapati xuất gia làm Tỳ kheo ni. Công chúa
cũng xuất gia và không bao lâu chứng quả A la hán. Trong số các Tỳ kheo ni,
công chúa là người giỏi phép thần thông nhất. Năm 78 tuổi, công chúa nhập Niết
bàn.
20. Ðức Phật và Rahula (La Hầu La)
Rahula (Hán dịch âm: La Hầu La) là người con trai độc nhất của Ðức Phật, khi Ðức Phật còn là thái tử. Lần đầu tiên Ðức Phật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula lên 7 tuổi, được bà dì là Maha Pajapati Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahula vẫn được chấp nhận vào Tăng đoàn, và được Ðức Phật giao cho Ngài Sariputta trực tiếp dạy dỗ.
Rahula (Hán dịch âm: La Hầu La) là người con trai độc nhất của Ðức Phật, khi Ðức Phật còn là thái tử. Lần đầu tiên Ðức Phật trở về thăm cố đô và gia đình, sau ngày thành đạo, Rahula lên 7 tuổi, được bà dì là Maha Pajapati Gotami trực tiếp nuôi dưỡng, săn sóc. Mặc dù còn nhỏ tuổi, nhưng Rahula vẫn được chấp nhận vào Tăng đoàn, và được Ðức Phật giao cho Ngài Sariputta trực tiếp dạy dỗ.
Một trong
những bài kinh nổi tiếng Ðức Phật đích thân giảng cho Rahula sau khi Rahula
xuất gia, là kinh Ambalatthika Rahulovada sutta, trong đó Ðức Phật nhấn mạnh
tầm quan trọng của tánh trung thực, của sự phản tỉnh để trừ diệt mọi ý niệm,
lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh.
Nhờ luỵện
tập phép tu thiền niệm hơi thở, theo lời chỉ dẫn của Ðức Phật, và sau khi nghe
giảng kinh Cula Rahulovada, Ngài Rahula chứng quả A la hán. Ngài qua đời trước
Ðức Phật và Ngài Sariputta.
Trong
"Trưởng Lão Tăng Kệ", có hai bài kệ như sau, của Rahula, sau khi Ngài
chứng quả A la hán:
"Nhờ ta được đầy đủ
Hai đức tánh tốt đẹp
Ðược bạn có trí gọi:
'Rahula may mắn'
Ta lại được pháp nhãn,
Các lậu hoặc đoạn tận,
Không còn có tái sanh
Ba minh ta đạt được
Thấy được giới 'bất tử'"
Hai đức tánh tốt đẹp
Ðược bạn có trí gọi:
'Rahula may mắn'
Ta lại được pháp nhãn,
Các lậu hoặc đoạn tận,
Không còn có tái sanh
Ba minh ta đạt được
Thấy được giới 'bất tử'"
21. Ðức Phật và bà dì mẫu Pajapati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba Ðề)
Bà dì Gotami là em hoàng hậu Maya, và là vợ thứ của vua Suddhodana. Sau khi hoàng hậu Maya qua đời, bà lãnh trách nhiệm săn sóc, nuôi nấng Thái tử Siđacta.
Bà dì Gotami là em hoàng hậu Maya, và là vợ thứ của vua Suddhodana. Sau khi hoàng hậu Maya qua đời, bà lãnh trách nhiệm săn sóc, nuôi nấng Thái tử Siđacta.
Lần đầu
tiên Ðức Phật về thăm thành Kapilavastu, sau ngày Ngài thành đạo, bà dì có trực
tiếp xin Ðức Phật cho xuất gia làm Tỳ kheo ni, nhưng Phật không chấp nhận, mà
cũng không nói rõ lý do. Bà Gotami ba lần xin, Ðức Phật đều từ chối. Sau khi
rời Kapilavastu, Ðức Phật cùng với số đệ tử đông đảo đến thành phố Vesali, ngụ
tại tịnh xá Kutagara.
Bà Gotami
cùng với nhiều bà khác thuộc giòng họ Sakya, đầu cạo tóc, thân đắp y vàng, kéo
nhau đến Vesali và đứng chờ ngoài cửa tịnh xá, nơi Ðức Phật an nghỉ. Từ Kapilavastu
đến Vesali, con đường dài 150 dặm. Bà Gotami và các bà giòng họ Sakya, chân
sưng phồng, quần áo đầy bụi, vẻ mặt buồn bã nhưng kiên quyết, yêu cầu Ngài
Ananda cho được gặp Ðức Phật. Ngài Ananda động lòng thương xót, vào xin Ðức
Phật cho phép các bà được xuất gia làm Tỳ kheo ni. Ngài Ananda hai ba lần nài
xin, Ðức Phật đều không chấp nhận. Ngài bèn thưa với Phật rằng:
"Nếu
phụ nữ được xuất gia và tu học theo pháp và luật của đức Thế Tôn thì họ có thể
chứng quả Thánh thứ nhất, quả Thánh thứ hai, quả Thánh thứ ba và cuối cùng có
chứng được quả A la hán không?"
Ðức Phật
trả lời là họ có khả năng chứng các quả Thánh nói trên. Ngài Ananda bạch tiếp:
"Nếu họ có thể chứng được các quả Thánh thì cớ sao bà dì Gotami lại không
được xuất gia theo Pháp và Luật của Ðức Thế Tôn, vì bà dì đã trực tiếp nuôi
nấng săn sóc Thế Tôn, từ ngày Ðức Thế Tôn còn tấm bé".
Ðức Phật
nói: "Nếu bà Gotami chấp nhận thực hành tám điều quy định nghiêm khắc sau
đây, thì Ta cho phép Bà và các phụ nữ xuất gia, tu học dưới pháp và luật của
Ta". Rồi Ðức Phật nói ra tám điều qui định nghiêm khắc mọi quan hệ giữa Tỳ
kheo và Tỳ kheo ni (xem luật Tỳ kheo ni). Ông Ananda đem 8 điều luật Phật nói
thưa lại với bà dì Gotami và các bà khác. Các bà đều hoan hỷ nhận lời.
Cho phép
bà dì Gotami xuất gia và thành lập đoàn Tỳ kheo ni, Ðức Phật đã thấy trước hậu
quả của quyết định của mình. Ngài nói với đại đức Ananda rằng: "Này
Ananda, nếu phụ nữ không được phép xuất gia và sống trong Pháp và Luật của Ta,
thì cuộc sống Thánh hạnh của các đệ tử của Ta có thể giữ vững dài lâu, Chánh
pháp cao cả của Ta có thể duy trì một ngàn năm, nhưng vì phụ nữ được phép xuất
gia, cuộc sống Thánh của các đệ tử Ta sẽ không duy trì dài lâu, và từ nay Chánh
pháp cao cả của Ta chỉ còn tồn tại 500 năm nữa mà thôi".
"Cũng
như, này Ananda, có những ngôi nhà có nhiều phụ nữ và ít đàn ông, những ngôi
nhà đó rất dễ bị mất trộm. Nếu để phụ nữ xuất gia, sống trong Pháp và Luật của
Như Lai, cuộc sống Thánh của các đệ tử sẽ khó mà duy trì dài lâu. Cũng như một
người đắp một con đê để ngăn một bể nước lớn, không để cho nước tràn qua. Ta
cũng vậy, Ta chế định ra 8 giới điều nghiêm khắc trên là để ngăn ngừa không để
cho Tỳ kheo ni vi phạm".
Những lời
Phật dạy, tuy có thể không được thuận tai đối với phụ nữ, nhưng cũng phải nhận
rằng, Ðức Phật đã sớm thấy rõ, đối với phụ nữ nói chung, bản tánh mềm yếu và dễ
cảm xúc, cuộc sống xuất gia không phải dễ dàng. Quan hệ giữa nam và nữ tu sĩ
trong Tăng đoàn cũng dễ xãy ra nhiều chuyện rắc rối.
Mặc dù
vậy, Ðức Phật là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cho thành lập
một Ni đoàn với đầy đủ giới luật và uy nghi. Bà la môn giáo, và các tôn giáo
khác đương thời ở Ấn Ðộ đều không có đoàn thể phụ nữ tu hành như vậy. Hơn nữa,
trong thời Ðức Phật còn tại thế và sau nầy, nhiều Tỳ kheo ni đã chứng quả A la
hán và trở thành nổi danh trong hành tu sĩ, như chúng ta có thể đọc thấy trong
cuốn "Trưởng lão ni kệ" thuộc Tiểu Bộ Kinh.
22. Ðức Phật và Tôn giả Ananda
Ananda là anh em cô cậu với Ðức Phật và là con của Amitodana, em vua Suddhodana, thân phụ của Ðức Phật. Vì ngày ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ cho mọi người trong gia tộc, cho nên Tôn giả được đặt tên Ananda (Khánh Hỷ).
Ananda là anh em cô cậu với Ðức Phật và là con của Amitodana, em vua Suddhodana, thân phụ của Ðức Phật. Vì ngày ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ cho mọi người trong gia tộc, cho nên Tôn giả được đặt tên Ananda (Khánh Hỷ).
Tôn giả
Ananda xuất gia theo Phật, cùng với các thanh niên khác dòng họ Sakya, là
Anuruddha, Bhadya, Bhaga, Kimbila, và Devadatta. Năm Ðức Phật 55 tuổi, tôn giả
Ananda được cử làm thị giả của Ðức Phật. Trong suốt 25 năm trời, từ ngày ấy cho
đến lúc Ðức Phật nhập Niết bàn, Tôn giả Ananda luôn luôn ở bên cạnh Ðức Phật,
hầu hạ săn sóc Ðức Phật, trong mọi nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Ông Ananda có
một trí nhớ lạ lùng, ông ghi nhớ không bỏ sót tất cả các bài thuyết pháp của
Ðức Phật cũng như của một số đệ tử lớn của Ðức Phật.
Khi một
Bà La Môn hỏi Tôn giả nhớ được bao nhiêu bài kinh, Tôn giả trả lời là có 82.000
bài của Ðức Phật thuyết và 2.000 bài của các Tỳ kheo, đệ tử của Ðức Phật
thuyết. Ðúng là có tổng số 84.000 bài kinh tất cả.
Ðức Phật
tán thán năm đức hạnh của Tôn giả Ananda là: học uyên bác, trí nhớ tốt, kiên
định, săn sóc chu đáo, ứng xử tốt.
Mãi sau
khi Ðức Phật nhập Niết Bàn. Tôn giả Ananda mới chứng quả A la hán. Ðấy là do
khi Ðức Phật còn tại thế, tôn giả bận làm công việc thị giả, cũng như bận ghi
nhớ các bài giảng của Ðức Phật, như một đệ tử bác học đa văn. Tôn giả Ananda
nhập Niết bàn, năm ông 120 tuổi.
23. Ðức Phật và Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða)
Devadatta là con vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamita, Pamita là một bà cô của Ðức Phật, Devadatta xuất gia theo Phật, cùng một lượt với ông Ananda và các thanh niên quý tộc khác, thuộc giòng họ Sakya. Devadatta không chứng được quả nào, nhưng lại giỏi một số pháp thần thông, và được vua Ajattasattu (A Xa Thế) xứ Magadha ủng hộ. Mặc dù lối sống hư hỏng, và tà kiến, tà hạnh, Devadatta vẫn được một số khá đông người tán thành và phục tùng. Khi Ðức Phật về già, Devadatta yêu cầu Phật trao cho mình quyền lãnh đạo Tăng già, nhưng Ðức Phật kiên quyết không chấp nhận.
Devadatta là con vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamita, Pamita là một bà cô của Ðức Phật, Devadatta xuất gia theo Phật, cùng một lượt với ông Ananda và các thanh niên quý tộc khác, thuộc giòng họ Sakya. Devadatta không chứng được quả nào, nhưng lại giỏi một số pháp thần thông, và được vua Ajattasattu (A Xa Thế) xứ Magadha ủng hộ. Mặc dù lối sống hư hỏng, và tà kiến, tà hạnh, Devadatta vẫn được một số khá đông người tán thành và phục tùng. Khi Ðức Phật về già, Devadatta yêu cầu Phật trao cho mình quyền lãnh đạo Tăng già, nhưng Ðức Phật kiên quyết không chấp nhận.
Devadatta
hết sức tức giận, và cùng với vua Ajattasattu âm mưu hại Phật. Nhưng các xạ thủ
được Ajattasattu thuê giết Phật, đều bị Ðức Phật thuyết giáo và trở thành đệ tử
của Phật. Devadatta thấy tự mình phải hạ thủ sát hại Phật mới được. Một lần Ðức
Phật đang đi dọc bờ núi Gijjhakuta (Linh Thứu), thì Devadatta từ trên đỉnh núi
đẩy xuống một tảng đá lớn. May mà tảng đá nầy lăn đụng phải một tảng đá khác và
bị vỡ. Ðức Phật chỉ xây xát và chảy máu ở chân.
Một lần
khác, Devadatta cho một con voi điên uống rượu, rồi xua voi húc Phật. Con voi
chạy đến gần Phật thì bỗng nhiên đứng lại, bị thuần phục và được Phật xoa đầu.
Sau lần âm mưu thất bại này, vua Ajatasattu sợ quá, không dám tiếp tục che chở
cho Devadatta nữa.
Devadatta
bèn nuôi một âm mưu khác, xảo quyệt hơn: với một số Tỳ kheo xấu như Kokàlika,
Devadatta muốn phá hoà hợp tăng, chia rẽ nội bộ Tăng già, Devaddata kiến nghị
Ðức Phật ban hành 5 điều luật mới như sau:
1. Tăng sĩ phải sống suốt đời ở trong rừng.
2. Chỉ được khất thực để ăn.
3. Chỉ được mặc áo làm bằng giẻ rách lượm ở nghĩa
địa.
4. Chỉ được sống dưới gốc cây.
5. Suốt đời không được ăn cá thịt.
Ðức Phật
chỉ trả lời là các đệ tử có thể tùy ý sống theo hay không theo 5 giới điều ấy,
nhưng Ngài không ép buộc họ. Devadatta lợi dụng sự từ chối của Ðức Phật, lôi
kéo được một số tăng sĩ trẻ, thiếu học thức và không có căn bản vững vàng, đi
theo mình đến Gayasisa. Nhưng hai đệ tử lớn của Phật là Sariputta và Moggalana,
theo chỉ thị của Ðức Phật cũng đến Gayasisa, thuyết pháp cho họ nghe, và dẫn họ
về trở lại với chánh pháp.
Từ đó,
tai nạn liên tiếp đến với Devadatta. Mắc bệnh nan y, trước khi chết, Devadatta
ăn năn hối lỗi và tỏ ý muốn được gặp Ðức Phật. Nhưng vì nghiệp ác quá nặng cho
nên Devadatta chết mà không gặp Phật, và phải đọa địa ngục, chịu khổ trong
nhiều kiếp.
Về việc
Devadatta, Ðức Phật răn các Tỳ kheo rằng, vì Devadatta bị chinh phục bởi các ác
pháp, cho nên phải đọa địa ngục, tức là bị chinh phục bởi lợi dưỡng, danh vọng,
cung kính, dục vọng xấu, tà kiến. (Xem Tăng Chi III, 20)
24. Ðức Phật và Trưởng giả Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika)
Nhà triệu phú, trưởng giả Anathapindika là vị thí chủ lớn nhất ủng hộ Ðức Phật và tăng chúng, thời Ðức Phật còn tại thế. Ông vốn tên là Sudatta, nhưng vì ông hay bố thí cho kẻ nghèo và người mồ côi, mồ cút cho nên người ta tôn gọi ông là Trưởng giả Cấp Cô Ðộc (Anathapindika). Ông sinh ra ở Savatthi.
Nhà triệu phú, trưởng giả Anathapindika là vị thí chủ lớn nhất ủng hộ Ðức Phật và tăng chúng, thời Ðức Phật còn tại thế. Ông vốn tên là Sudatta, nhưng vì ông hay bố thí cho kẻ nghèo và người mồ côi, mồ cút cho nên người ta tôn gọi ông là Trưởng giả Cấp Cô Ðộc (Anathapindika). Ông sinh ra ở Savatthi.
Một lần
đến thành Rajagaha (Vương Xá) có công việc, ông được biết là Ðức Phật đang ngụ
ở rừng Sitavana, ngoài thành Rajagaha. Ông vui mừng khôn xiết và sáng sớm hôm
sau, trải qua một đêm dài mất ngủ vì quá sung sướng bồn chồn, ông lên đường đi
đến rừng Sitavana. Tại đây, Ðức Phật đang đi kinh hành ngoài trời và biết trước
ông đến, gọi ông bằng tên riêng Sudatta và thân mật bảo ông lại gần Ngài.
Ông vấn
an Phật, hỏi thăm Ðức Phật có an lạc không, Ðức Phật trả lời:
"Tất nhiên, bao giờ cũng sống an lạc
Bậc A la hán trong lòng mọi ngọn lửa đã dập tắt.
Không còn đeo đuổi theo dục lạc vật chất nữa.
Cõi lòng mát lạnh, mọi sanh y đoạn tận.
Mọi trở ngại đều loại trừ, đã khéo chế ngự,
Mọi đau khổ trong tâm
Bậc A la hán sống an lạc, hạnh phúc
Vì trong lòng được an tịnh". (Tương Ưng I, 273)
Bậc A la hán trong lòng mọi ngọn lửa đã dập tắt.
Không còn đeo đuổi theo dục lạc vật chất nữa.
Cõi lòng mát lạnh, mọi sanh y đoạn tận.
Mọi trở ngại đều loại trừ, đã khéo chế ngự,
Mọi đau khổ trong tâm
Bậc A la hán sống an lạc, hạnh phúc
Vì trong lòng được an tịnh". (Tương Ưng I, 273)
a) Tinh xá Jatavana
Nghe lời
Phật giảng, ông Anathapindika chứng được Sơ quả (Sotapanna), và ông thỉnh cầu
Ðức Phật sống qua mùa mưa ở Savatthi. Ðức Phật nhận lời. Ông Anathapindika, trở
về Savatthi, mua một khu vườn của Thái tử Jeta (Kỳ Ðà), và xây ở đây tu viện
Jetavana nổi tiếng.
Sách kể
rằng, ông mua khu vườn bằng số tiền đồng vàng lát đầy diện tích vườn, theo sự
đòi hỏi của Thái tử Jeta. Nhưng Thái tử không chịu bán cây ở trong vườn, và tự
mình đem tất cả những cây đó cúng dường Ðức Phật. Từ đó, công viên có tên gọi
trong các kinh Phật (Hán dịch) là "Cấp cô độc viên Kỳ đà thụ". Ðức Phật
đã giảng nhiều kinh, và trải qua 19 mùa mưa ở Tịnh Xá nầy.
Các bài
nói chuyện của Ðức Phật với ông Anathapindika đều có ý nghĩa lớn đối với người
Phật tử tại gia. Trong một bài thuyết pháp về hạnh bố thí, Ðức Phật nói là
"sự cúng dường cho Phật và chư Tăng là công đức rất lớn, nhưng có công đức
hơn nữa là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, có công đức hơn 3 quy y là tự
mình giữ 5 giới, có công đức hơn giữ 5 giới là quán về lòng từ trong giây phút;
nhưng có công đức hơn cả là phát triển tầm nhìn trí tuệ thấy được sự vật như
thật và hiểu được tánh vô thường của sự vật" (Tăng Chi IV, 264 - 265)
Qua đoạn
kinh trên, có thể thấy điều Ðức Phật coi trọng hơn cả đối với người xuất gia
hay tại gia là phát triển trí tuệ, để nhìn thấy sự vật như thật, đúng bản chất
của chúng là vô thường, vô ngã. Tuy bố thí, cúng dường cũng là điều quan trọng,
đối với người tại gia, nhưng tự mình tu tập, thực hành nếp sống đạo đức theo 5
giới, nuôi dưỡng lòng từ lại càng quan trọng hơn, nhưng quan trọng hơn cả là
phát triển trí tuệ, để nhìn được sự vật như thật, nhờ đó mà không còn bị tham
đắm, nội tâm được giải thoát, tự tại, trí tuệ được trong sáng.
b) Bốn niềm vui của Phật tử tại gia
Ðức Phật
nói tới bốn niềm vui chính đáng của người Phật tử tại gia, niềm vui có của cải,
niềm vui được giàu có, niềm vui không có nợ nần, và niềm vui không có gì bị chê
trách.
"Thế
nào là niềm vui có của cải? Ở đây, gia chủ có của cải nhờ phấn đấu tích cực,
góp gom được bằng sức của bàn tay, bằng mồ hôi, đúng pháp, và tích lũy được một
cách đúng pháp, và có ý nghĩ: 'Của cải này là của tôi, có được nhờ phấn đấu
tích cực tích lũy đúng pháp', cho nên niềm vui và thỏa mãn đến với ông ta. Ðó
là niềm vui có của cải".
"Thế
nào là niềm vui được giàu có? Ở đây, vị gia chủ được giàu có nhờ phấn đấu tích
cực, vui vẻ nhờ giàu có và làm nhiều việc lành. Vì có ý nghĩ 'Nhờ giàu có mà có
thể hưởng thụ sự giàu có và làm các việc lành', cho nên niềm vui và sự thỏa mãn
đến với ông ta. Ðó là niềm vui được giàu có".
"Thế
nào là niềm vui không có nợ nần? Ở đây, vị gia chủ không có nợ nần, lớn hay nhỏ
đối với bất cứ một ai. Vì có ý nghĩ 'Tôi không có nợ nần, dù lớn hay nhỏ đối
với bất cứ một ai', cho nên niềm vui và thỏa mãn đến với ông ta. Ðó là niềm vui
không có nợ nần".
"Thế
nào là niềm vui không bị chê trách? Ở đây, Vị Thánh đệ tử có niềm vui vì các
hành động của thân, miệng và ý đều không có gì là đáng chê trách. Với ý nghĩ
'Tôi không có gì đáng chê trách ở thân, miệng và ý', niềm vui và thỏa mãn đến
với ông ta". (Tăng Chi III, 77 - 78)
Tiếp đó,
Ðức Phật nói trong ba niềm vui trên đây của người tại gia, niềm vui không có gì
đáng bị chê trách nơi hành động, lời nói và ý nghĩ là ưu việt hơn cả.
c) Bảy loại người vợ
Một lần,
Ðức Phật đến thăm nhà ông Anathapindika, nghe có tiếng ồn ào thất thường trong
nhà, bèn hỏi nguyên nhân, ông Anathapindika thưa:
"Bạch
Thế Tôn, đó là Suyata, con dâu tôi đang ở với chúng tôi. Nó giàu có và đến đây
từ một gia đình giàu có, nó không săn sóc gì tới mẹ chồng, bố chồng và cả chồng
nó nữa. Nó cũng không kính trọng, tôn quý và đảnh lễ Ðức Thế Tôn". Ðức
Phật cho gọi Suyata lại và giảng cho nghe về bảy loại người vợ:
1. Người
vợ có tâm địa ác, có ý xấu, không có lòng thương, bỏ rơi chồng mình, yêu những
người đàn ông khác, một dâm nữ, chỉ muốn làm phiền lòng người. Ðó là loại vợ
sát nhân.
2. Người
vợ hay hoang phí của cải tài vật, dù là ít do chồng làm ăn kiếm được, nhờ cày
ruộng, buôn bán hay lao động khéo tay, đó là loại vợ ăn trộm.
3. Người
vợ lười biếng, không muốn làm gì hết, lại tham ăn, ác độc, thô bạo, thích nói
lời ác, lấn át người chồng siêng năn cần mẫn. Ðó là loại vợ kiêu xa.
4. Người
vợ trìu mến, thân ái bảo vệ chồng như mẹ bảo vệ con, giữ gìn tài sản của chồng,
đó là loại vợ như mẹ.
5. Người
vợ kính trọng chồng, như em gái đối với anh cả, khiêm tốn, sống chiều đúng theo
ý chồng. Ðó là loại vợ như em út.
6. Người
vợ sung sướng khi thấy chồng, như gặp người bạn cũ sau bao năm xa cách, thuộc
giòng quý tộc, có đạo đức, sống thanh tịnh. Ðó là loại vợ như bạn bè.
7. Người
vợ dù là bị đối đãi không tốt, nhưng không giận hờn, vẫn bình tĩnh, chịu đựng
mọi hành vi của chồng với lòng từ mẫn, tâm không biết giận, sống chiều đúng
theo ý chồng. Ðó là loại vợ như người phục vụ.
Ðức Phật
sau khi mô tả bảy loại người vợ nói trên, nói rằng: loại vợ sát nhân, loại vợ
ăn trộm, loại vợ kiêu xa đều là không tốt, còn loại vợ như mẹ, như em út, như
bạn bè, như người phục vụ là những người vợ tốt, đáng tán thán, và Ðức Phật hỏi
đó là bảy loại vợ mà một người đàn ông có được, và Suyata muốn là loại người vợ
nào?
Suyata
trả lời: "Xin đức Thế Tôn từ nay trở đi nghĩ về cháu là loại vợ như người
phục vụ".
d) Cây bồ đề Ananda
Ông
Anathapindika thường hay đến thăm Ðức Phật hàng ngày và thấy các Phật tử tỏ ra
thất vọng mỗi khi đến mà không được gặp Phật vì Phật đi thuyết pháp ở một nơi
khác, cho nên hỏi Ðại Ðức Ananda xem có cách gì để cho Phật tử có thể cúng
dường Phật, dù Ngài vắng mặt. Ðại Ðức Ananda bạch Phật về chuyện này và hỏi
Phật về các vật đáng được cúng dường, đảnh lễ. Ðức Phật trả lời là có ba loại.
Loại đồ vật thuộc về thân Ðức Phật, loại đồ vật Ðức Phật thường dùng, và loại
đồ vật nhắc nhủ nhớ tới Ðức Phật.
Ðại Ðức
Ananda hỏi: "Xây một tháp thờ khi đức Thế Tôn còn sống có thích hợp
chăng?"
"Không,
một vật nhắc nhủ nhớ tới Ðức Phật không có cơ sở vật chất, chỉ có ý nghĩa thuần
túy tinh thần. Như cây Bồ Ðề, được Ðức Phật sử dụng, là một vật đáng cúng
dường, dù khi Ðức Phật còn sống hay là khi Ðức Phật đã diệt độ rồi."
Ðại Ðức
Ananda nói: "Khi đức Thế Tôn đi thuyết pháp ở nơi khác, tu viện lớn
Jetavana nầy không có nơi để quần chúng quy ngưỡng và cúng dường. Con có thể
lấy hạt cây Bồ Ðề lớn ở Bodhi Gaya (Bồ Ðề Ðạo Tràng) và gieo nó ở cửa Tinh Xá
Jetavana được không?"
Ðức Phật
trả lời: "Rất tốt, hãy trồng cây Bồ Ðề ở đây. Như thế khác nào bao giờ Ta
cũng có mặt ở Tinh Xá Jetavana nầy".
Ðại Ðức
Ananda nói ý kiến của Ðức Phật với Phật tử tại gia như ông Anathapindika, nữ
gia chủ Visakha và vua Pasenadi xứ Kosala. Ðại Ðức Ananda nhờ Tôn giả Moggalana
(Mục Kiền Liên) tìm cho một quả Bồ Ðề trên cây Bồ Ðề lớn ở Bodhi Gaya. Ðại Ðức
Ananda đem trồng ở cửa Tinh Xá Jetavana. Cây Bồ Ðề ấy hiện nay vẫn còn, và được
gọi là cây Bồ Ðề Ananda.
e) Ông Anathapindika qua đời và sinh lên cõi trời Ðâu Suất
Khi ông
Anathapindika lâm bệnh nặng, ông mời Tôn giả Sariputta đến giảng kinh tại nhà.
Cả Ngài Sariputta và Ngài Ananda cũng đến vấn an ông. Tôn giả Sariputta giảng
cho ông nghe một bài kinh sâu sắc. Nghe bài kinh gần xong, hai mắt ông trào đầy
lệ vì quá cảm động. Ông Ananda hỏi vì sao, thì ông trả lời là ông chưa từng
được nghe một bài thuyết pháp sâu sắc đến thế. Ngài Sariputta trả lời, đây vốn
là một bài thuyết pháp chỉ giảng cho những Tăng sĩ có trình độ tu học cao.
Ít lâu,
sau khi hai Ngài Sariputta và Ananda ra đi, ông Anathapindika qua đời và sanh
lên cõi Trời Tushita (Ðâu Suất).
Ðến tối,
thiên chủ Anathapindika, với thân hình sáng chói cả khu vườn Jetavana, đến chào
Ðức Phật, tán thán công đức của Tôn giả Xá Lợi Phất, và bày tỏ niềm vui sướng
của mình được thấy Ðức Phật và chư Tăng ngụ tại Tu Viện Jetavana. Thiên chủ
Anathapindika nói:
"Ý
lành và trí tuệ, tâm được tu tập đúng pháp, lối sống tối cao cả, dựa trên đạo
đức chân chính. Chính điều ấy làm con người thanh tịnh, chứ không phải danh lợi
thế gian".
25. An cư kiết hạ
Sự nghiệp giáo hóa và thuyết pháp của Ðức Phật kéo dài 45 năm, từ năm Ðức Phật thành đạo lúc 35 tuổi cho đến năm tuổi 80, Ðức Phật nhập Niết bàn. Năm này qua năm khác, Ðức Phật đi nơi này nơi kia, khi thì đi một mình, khi thì có đông đảo đệ tử đi theo, thuyết pháp độ sanh, giáo hóa quần chúng bằng gương sáng cao cả của bản thân, và bằng lời lẽ đầy trí tuệ. Chỉ vào mùa mưa, ở Ấn Ðộ, thông thường giữa tháng 7 và tháng 11, Ðức Phật nghỉ lại trong các tu viện và thuyết pháp tại chỗ, không đi ra ngoài. Tục lệ này gọi là An cư kiết hạ, được Tăng ni Phật tử duy trì liên tục cho đến ngày nay, ở khắp các nước có Phật giáo. Vào mùa an cư kiết hạ, quần chúng là tín đồ hay không tín đồ, hàng ngày kéo đến đông đảo tại tu viện hay công viên, nơi có Ðức Phật và Chư Tăng trú ngụ, để được nghe thuyết pháp, cúng dường Phật và Chư Tăng.
Sự nghiệp giáo hóa và thuyết pháp của Ðức Phật kéo dài 45 năm, từ năm Ðức Phật thành đạo lúc 35 tuổi cho đến năm tuổi 80, Ðức Phật nhập Niết bàn. Năm này qua năm khác, Ðức Phật đi nơi này nơi kia, khi thì đi một mình, khi thì có đông đảo đệ tử đi theo, thuyết pháp độ sanh, giáo hóa quần chúng bằng gương sáng cao cả của bản thân, và bằng lời lẽ đầy trí tuệ. Chỉ vào mùa mưa, ở Ấn Ðộ, thông thường giữa tháng 7 và tháng 11, Ðức Phật nghỉ lại trong các tu viện và thuyết pháp tại chỗ, không đi ra ngoài. Tục lệ này gọi là An cư kiết hạ, được Tăng ni Phật tử duy trì liên tục cho đến ngày nay, ở khắp các nước có Phật giáo. Vào mùa an cư kiết hạ, quần chúng là tín đồ hay không tín đồ, hàng ngày kéo đến đông đảo tại tu viện hay công viên, nơi có Ðức Phật và Chư Tăng trú ngụ, để được nghe thuyết pháp, cúng dường Phật và Chư Tăng.
26. Ðức Phật và vua Pasenadi xứ Kosala
Như đã nói trên, trong 45 năm giáo hóa và thuyết pháp độ sanh, Ðức Phật hoặc một mình, hoặc cùng với đông đảo học trò đi lại nhiều nơi ở vùng trung châu sông Hằng. Nhưng thời gian dài nhất, Ðức Phật ở tại Savatthi, kinh đô của vương quốc Kosala.
Như đã nói trên, trong 45 năm giáo hóa và thuyết pháp độ sanh, Ðức Phật hoặc một mình, hoặc cùng với đông đảo học trò đi lại nhiều nơi ở vùng trung châu sông Hằng. Nhưng thời gian dài nhất, Ðức Phật ở tại Savatthi, kinh đô của vương quốc Kosala.
Cũng như
Trưởng giả Anathapindika, vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) xứ Kosala là một thí chủ lớn
của Ðức Phật và Chư Tăng. Ở Savatthi, ngoài Tinh Xá Jetavana của ông
Anathapindika cúng dường Ðức Phật, còn có tu viện Rajakarama do vua Pasenadi
xây cất, để cúng dường Phật và Chư Tăng.
Hoàng hậu
Malika, vợ vua cũng là một tín đồ thuần thành của Ðức Phật và khéo hướng dẫn
giúp đỡ vua một cách tốt đẹp trong các vấn đề tôn giáo. Có lần, vua nằm thấy
liên tiếp 16 cơn mộng bất thường, các đạo sĩ Ba la môn ở trong triều nói đó là
điềm gở và khuyên vua phải tổ chức tế đàn lớn, giết nhiều sinh vật để cúng tế
thì mới tai qua nạn khỏi. Vua cũng nghe theo và chuẩn bị tổ chức tế đàn.
Khi Hoàng
hậu Malika biết tin, bà khuyên vua, thay vì tổ chức tế đàn, hãy yết kiến Phật
và hỏi Ngài về ý nghĩa của 16 cơn mộng. Và vua được yên tâm, sau khi nghe Phật
giải thích đầy đủ về 16 cơn mộng bất thường của vua. Vua bèn thôi không tổ chức
tế đàn nữa.
Một niềm
hạnh phúc lớn của vua Pasenadi là được nghe Ðức Phật thuyết pháp nhiều lần.
Tương Ưng Bộ Kinh có một chương đặc biệt, có đầu đề "Tương Ưng
Kosala" ghi lại phần lớn các bài thuyết pháp của Ðức Phật cho vua
Pasenadi. Sau đây xin trích giới thiệu nội dung vài đoạn trong chương Kosala
Tương Ưng:
a) Ðánh giá một người là thế nào không phải là chuyện đơn giản.
Một lần,
vua Pasenadi ngồi bên cạnh Phật, tại lâu đài Migaramatu, thì thấy có một số du
sĩ ngoại đạo đi ngang gần đấy. Người thì bện tóc, người thì lõa thể, người thì
chỉ mặc một y. Vua hỏi Ðức Phật là trong số các du sĩ đó, ai là người đã chứng
quả A la hán, ai là người đang trên đường tiến tới chứng quả A la hán. Ðức Phật
trả lời là đối với nhà vua đang sống trong vòng dục lạc, dùng các loại hương
chiên đàn từ xứ Kasi, trang sức với vòng hoa, hương thơm, dầu sáp, dùng nhiều
vàng bạc, thì thật là khó biết trong số các du sĩ vừa đi qua, ai là A La Hán và
ai đang trên con đường tiến tới chứng quả A La Hán. Hơn nữa phải cùng sống lâu
với một người, lại phải biết chú ý, xem xét và phải có trí tuệ, thì mới có thể
biết được người đó có giới hạnh hay không, phải cùng chung một nghề, mới biết
được một người có thanh tịnh hay không, phải qua sự thử thách của một thời gian
bất hạnh mới biết được một người có trung kiên hay không, phải qua đàm đạo với
một người mới biết được người đó có trí tuệ hay không. Hơn nữa, phải trải qua
một thời gian dài có chú ý, xem xét và phải có trí tuệ thì mới có thể đánh giá
một con người là thế nào,... Và cuối cùng Ðức Phật khuyên vua xem xét người,
không nên chỉ nhìn bộ mặt bề ngoài, có thể là giả dối che đậy.
b) Ðức Phật khuyên coi trọng phụ nữ, ngang hàng với nam giới.
Một lần,
vua Pasenadi, được tin Hoàng hậu Malika hạ sanh con gái, tỏ vẻ không vui. Ðức
Phật, biết tâm trạng đó của vua, bèn đọc bài kệ:
"Này nhân chủ ở đời
Có một số thiếu nữ
Có thể tốt đẹp hơn
So sánh với con trai
Có trí tuệ giới đức
Khiến nhạc mẫu thánh phục
Rồi sanh được con trai
Là anh hùng, quốc chủ
Người con trai như vậy,
Của người mẹ hiền đức
Thật xứng là đạo sư
Giáo giới cho toàn quốc". (Tương Ưng I, 104)
Có một số thiếu nữ
Có thể tốt đẹp hơn
So sánh với con trai
Có trí tuệ giới đức
Khiến nhạc mẫu thánh phục
Rồi sanh được con trai
Là anh hùng, quốc chủ
Người con trai như vậy,
Của người mẹ hiền đức
Thật xứng là đạo sư
Giáo giới cho toàn quốc". (Tương Ưng I, 104)
c) Không nên coi thường Tỳ kheo trẻ.
Có lần
vua Pasenadi hỏi vì sao, Ðức Phật tuổi còn trẻ và xuất gia chưa bao lâu, mà
chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng giác, là quả Thánh cao nhất mà nhiều vị
giáo chủ khác, tuy tuổi đời và đạo đều cao hơn Ðức Phật, nhưng thừa nhận rằng
mình chưa đạt tới được. Ðức Phật trả lời, có bốn cái trẻ không thể coi thường.
Thứ nhất là Sát đế lỵ trẻ (võ tướng trẻ thuộc đẳng cấp Sát đế lỵ), thứ hai là
con rắn trẻ, thứ ba là ngọn lửa trẻ (mới nhen nhúm lên), và thứ tư là Tỳ kheo
trẻ.
Ý từ Ðức
Phật là vị võ tướng trẻ có thể chiếm thiên hạ, rắn trẻ có thể cắn chết người,
ngọn lửa trẻ có thể đốt cháy cánh đồng lớn, Tỳ kheo trẻ - nếu tinh tấn tu hành
- có thể chứng quả Thánh.
d) Chiến thắng nuôi dưỡng hận thù.
Pasenadi,
làm vua xứ Kosala hùng mạnh không tránh khỏi chiến tranh với các nước láng
giềng, đặc biệt là với chính cháu mình là Ajatasattu, vua xứ Magadha. Có khi
vua Pasenadi bại trận, có khi vua Pasenadi chiến thắng, thậm chí có lần bắt
sống được vua Ajatasattu. Vì vua Pasenadi là người có tâm địa tốt, sùng kính
Phật, cho nên khi bắt sống được vua Ajatasattu, vua chỉ tịch thu toàn bộ binh
mã, còn thì tha cho vua Ajatasattu trở về.
Khi các
Tỳ kheo thuật lại chuyện này với Ðức Phật. Ngài nói lên hai bài kệ. Bài đầu,
khi vua Pasenadi thất trận:
"Thắng trận sinh thù oán
Bại trận nếm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại,
Tịch tịnh hưởng an lạc". (Tương Ưng I, 102)
Bại trận nếm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại,
Tịch tịnh hưởng an lạc". (Tương Ưng I, 102)
Bài kệ
thứ hai, Ðức Phật nói lên khi nghe các Tỳ kheo thuật chuyện vua Pasenadi thắng
trận và bắt sống được vua Ajatasattu:
"Vì nghĩ đến tư lợi,
Nên mới cướp hại người
Khi người khác cướp lại,
Bị hại lại hại người
Người ngu nghĩ như vậy,
Khi ác chưa chín muồi
Người ngu chịu khổ đau,
Sát người, bị người sát
Thắng người, bị người thắng
Mắng người, người mắng lại.
Não người, người não lại
Do nghiệp được diễn tiến
Bị hại, lại hại người". (Tương Ưng I, 103)
Nên mới cướp hại người
Khi người khác cướp lại,
Bị hại lại hại người
Người ngu nghĩ như vậy,
Khi ác chưa chín muồi
Người ngu chịu khổ đau,
Sát người, bị người sát
Thắng người, bị người thắng
Mắng người, người mắng lại.
Não người, người não lại
Do nghiệp được diễn tiến
Bị hại, lại hại người". (Tương Ưng I, 103)
27. Ðức Phật và nữ thí chủ Visakha
Cũng tại Savathi, Ðức Phật còn có thêm một tinh xá thứ ba nữa, do nữ thí chủ Visakha xây. Tinh xá gọi là Pubbarama. Ðức Phật và Tăng chúng đã trải qua sáu mùa kiết hạ tại Tinh xá này của bà Visakha. Bà là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, mẹ là Sumanà Devi và ông nội của bà cũng là một nhà triệu phú tên là Mendaka.
Cũng tại Savathi, Ðức Phật còn có thêm một tinh xá thứ ba nữa, do nữ thí chủ Visakha xây. Tinh xá gọi là Pubbarama. Ðức Phật và Tăng chúng đã trải qua sáu mùa kiết hạ tại Tinh xá này của bà Visakha. Bà là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, mẹ là Sumanà Devi và ông nội của bà cũng là một nhà triệu phú tên là Mendaka.
Ngay từ
năm bà lên 7 tuổi, bà được may mắn gặp Ðức Phật, khi Ðức Phật đến Bhaddiya, nơi
sinh quán của Bà, tại vương quốc Anga. Do có trí thông minh và đạo đức bẩm
sinh, sau khi nghe Phật giảng pháp, mặc dù tuổi còn nhỏ, bà cũng chứng Sơ quả
(Sotapanna).
Bà có một
người chồng giàu có, Punnavadhana, con trai nhà triệu phú Migàra. Bố chồng vốn
là một tín đồ thuần thành của Nigantha Nataputta, vị giáo chủ của đạo Jain. Bà
đã khéo léo xin được phép mời Ðức Phật đến nhà chồng thụ trai và sau đó, thuyết
pháp cho cả gia đình nghe. Bố chồng cũng nghe nhưng ngồi sau một bức màn. Vào
cuối bài thuyết pháp của Ðức Phật, bố chồng giác ngộ, chứng ngay Sơ quả. Cả gia
đình chồng trở thành một gia đình Phật tử hạnh phúc và thuần thành.
Bà yêu
cầu Ðức Phật đồng ý cho bà được làm tám việc đối với Tăng chúng như sau:
1. Tặng áo cà sa cho Tăng chúng vào mùa kiết hạ, từ
nay cho đến ngày bà qua đời.
2. Cúng dường cho tất cả Tỳ kheo đến Savathi.
3. Cúng dường cho tất cả Tỳ kheo ra khỏi Savathi.
4. Cúng dường thức ăn cho Tỳ kheo ốm.
5. Cúng dường thức ăn cho những ai săn sóc người
ốm.
6. Cúng dường thuốc men cho Tý kheo ốm.
7. Cúng dường cháo cho Tỳ kheo.
8. Cúng dường áo tắm cho Tỳ kheo ni.
Ðức Phật
vui vẻ nhận lời, Ðức Phật nhiều lần thuyết pháp cho bà Visakha. Trong một bài
thuyết pháp, Ðức Phật có nói tới tám giới cho Phật tử tại gia nên theo trong
những ngày Bố Tát (Uposatha). Hiện nay, tám giới này vẫn được Phật tử theo,
trong các ngày Bố Tát ở các nước có đạo Phật.
Bà
Visakha là nữ thí chủ lớn nhất của Ðức Phật và Tăng chúng, cũng như ông
Anathapindika là nam thí chủ lớn nhất.
28. Ðức Phật và vua Bimbisara
Bimbisara (Tần Ba Sa La) là vua xứ Magadha, có kinh đô ở thành Rajagaha (Vương Xá). Vua từng gặp Ðức Phật khi Phật mới xuất gia, và yêu cầu Ðức Phật trở lại thăm vương quốc của vua, sau ngày thành đạo. Giữ đúng lời hứa cũ, Ðức Phật cùng với đông đảo các vị A la hán đệ tử, đi từ Gaya đến thủ đô Rajagaha, và nghỉ tại đền Suppatittha trong một rừng cây cọ dừa. Ðươc tin, vua Bimbirasa cùng với quần thần đông đảo đến chào Ðức Phật và Tăng chúng.
Bimbisara (Tần Ba Sa La) là vua xứ Magadha, có kinh đô ở thành Rajagaha (Vương Xá). Vua từng gặp Ðức Phật khi Phật mới xuất gia, và yêu cầu Ðức Phật trở lại thăm vương quốc của vua, sau ngày thành đạo. Giữ đúng lời hứa cũ, Ðức Phật cùng với đông đảo các vị A la hán đệ tử, đi từ Gaya đến thủ đô Rajagaha, và nghỉ tại đền Suppatittha trong một rừng cây cọ dừa. Ðươc tin, vua Bimbirasa cùng với quần thần đông đảo đến chào Ðức Phật và Tăng chúng.
Vì trong
số đệ tử đi theo hầu Ðức Phật, có Tôn giả Kassapa vốn có uy tín lớn trong quần
chúng ở đây, cho nên nhiều người phân vân không rõ ai là bậc Ðạo Sư, Ðức Phật
hay là Tôn giả Kassapa. Ðức Phật biết rõ mối phân vân đó của quần chúng, bèn
hỏi ông Kassapa vì nguyên nhân gì ông bỏ tập tục tế thần lửa. Ông Kassapa thưa
rằng, ông bỏ tập tục tế thần lửa, vì ông nhận thấy cảnh giới Niết bàn an tịnh,
cao quý hơn nhiều so với dục lạc thế gian. Nói xong ông đảnh lễ Phật và nói:
"Ðức Thế Tôn là bậc Ðạo Sư, con là đệ tử của Ngài".
Ðức Phật
bèn giảng kinh bổn sanh của ông Kassapa cho mọi người nghe, kể rằng trong một
kiếp trước, Ðức Phật cũng đã từng độ cho ông Kassapa ở xứ Narada. Ðược nghe Phật
thuyết pháp, vua Bimbisara chứng ngay Sơ quả. Hôm sau, vua thết trai tăng ở
hoàng cung, mời Phật và Tăng chúng tham dự. Sau đó, vua tặng Ðức Phật và Tăng
chúng công viên Trúc Lâm, trong đó có đền Con Sóc và Tinh Xá Veluvanaràma, nơi
đây Ðức Phật trải qua 6 mùa an cư kiết hạ.
Bà Khema,
vợ thứ của vua, sau này xuất gi và cùng với bà Gotami, lãnh đạo Ni chúng. Còn
Hoàng hậu chánh thất của vua là bà Kosala Devi, con gái vua Pasenadi xứ Kosala.
Con bà Kosala Devi là Ajatasattu (A Xà Thế), sau này cướp ngôi và giết vua cha,
đó là do nghiệp quá khứ của vua Bimbisara quá nặng nề. Nhưng vì vua đã chứng Sơ
quả, cho nên cái chết của vua cũng nhẹ nhàng, đỡ phần bi thảm và sau khi qua
đời, vua lập tức sanh lên cõi trời Lummaharajika với cái tên thiên chủ
Janavasabba.
Ajatasattu
sau khi cùng với Devadatta âm mưu giết hại Phật không thành, biết ăn năn hối
lỗi, xin Phật cho quy y và trở thành một Phật tử tại gia hàng đầu của Ðức Phật.
Do nghiệp quá khứ nặng nề, cho nên đến lượt ông, ông cũng bị con ông giết và
cướp ngôi.
29. Ðức Phật và tướng cướp Angulimala
Một sự kiện đáng ghi nhớ, đánh dấu năm thứ 20 ngày thành đạo là Ðức Phật giác ngộ cho Angulimala, tên tướng cướp khét tiếng hung ác của xứ Kosala. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ vô tội). Cha ông vốn là một quan chức trong triều vua xứ Kosala. Thời niên thiếu, ông theo học ở Taxila, là trung tâm học vấn nổi tiếng đương thời ở Bắc Ấn Ðộ. Ông học rất giỏi và được thầy yêu thương nhất trong số các học sinh. Ðiều không may là các bạn đồng học ghen tỵ ông, vu cáo ông với thầy giáo và ông thầy giáo cả tin đâm ra căm thù ông, và muốn giết ông bằng cách bắt ông trả học phí bằng 1000 ngón tay phải của con người. Angulimala phải vâng lời thầy, mặc dù rất khổ tâm. Ông bèn rút lui vào rừng Jalini ở Kosala và bắt đầu giết người để có đủ số ngón tay cần thiết.
Một sự kiện đáng ghi nhớ, đánh dấu năm thứ 20 ngày thành đạo là Ðức Phật giác ngộ cho Angulimala, tên tướng cướp khét tiếng hung ác của xứ Kosala. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ vô tội). Cha ông vốn là một quan chức trong triều vua xứ Kosala. Thời niên thiếu, ông theo học ở Taxila, là trung tâm học vấn nổi tiếng đương thời ở Bắc Ấn Ðộ. Ông học rất giỏi và được thầy yêu thương nhất trong số các học sinh. Ðiều không may là các bạn đồng học ghen tỵ ông, vu cáo ông với thầy giáo và ông thầy giáo cả tin đâm ra căm thù ông, và muốn giết ông bằng cách bắt ông trả học phí bằng 1000 ngón tay phải của con người. Angulimala phải vâng lời thầy, mặc dù rất khổ tâm. Ông bèn rút lui vào rừng Jalini ở Kosala và bắt đầu giết người để có đủ số ngón tay cần thiết.
Ban đầu,
ông treo các ngón tay người trên cây, nhưng vì các ngón tay bị quạ mổ ăn, cho
nên ông xâu ngón tay người lại thành vòng để đeo nơi cổ; do đó ông có tên
Angulimala (vòng ngón tay). Sách kể rằng, khi ông đã thu thập được 999 ngón
tay, thời Ðức Phật xuất hiện. Angulimala rất mừng vì sắp có đủ số ngón tay cần
thiết để nộp cho ông thầy giáo ác độc, Angulimala rút gươm, chạy đuổi theo
Phật.
Vì Ðức
Phật dùng phép thần thông, nên Angulimala càng đuổi nhanh, càng không bắt kịp
được Phật, mặc dù Phật vẫn đi khoan thai từ từ. Cuối cùng, thở hỗn hển và ướt
đẫm mồ hôi, Angulimala đứng lại và gọi: "Này Tu sĩ, hãy dừng chân".
Ðức Phật nói bằng giọng từ tốn: "Mặc dù ta đang đi, nhưng ta đã dừng chân.
Còn nhà ngươi đã dừng chân hay chưa?"
Angulimala
không hiểu ý tứ câu nói của Ðức Phật như thế nào? Bởi vì Ðức Phật đang đi, lại
nói là đã dừng chân. Còn Angulimala đã dừng chân rồi, thì Phật lại bảo
"Hãy dừng chân!" Angulimala hỏi Phật và được Phật giải thích như sau:
"Ðúng là ta đã dừng mãi mãi, này Angulimala,
Không bao giờ dùng bạo lực với chúng sanh.
Còn nhà ngươi, hãy dừng tay chớ có giết hại đồng loại
Vì vậy mà Ta nói rằng, Ta đã dừng,
Và bảo ngươi cũng hãy dừng tay!"
Không bao giờ dùng bạo lực với chúng sanh.
Còn nhà ngươi, hãy dừng tay chớ có giết hại đồng loại
Vì vậy mà Ta nói rằng, Ta đã dừng,
Và bảo ngươi cũng hãy dừng tay!"
Nghiệp
thiện ngày xưa của Angulimala tác động vào tư tưởng của ông, và ông biết rằng,
ông đang đứng trước mặt Ðức Phật Thích Ca, Ngài đã vì lòng thương xót ông mà
đến cứu ông ra khỏi vòng tội lõi. Ông vứt gươm xuống đất, xin Ðức Phật cho ông
được xuất gia làm Tăng. Ðức Phật chỉ nói một câu đơn giản: "Ehi Bikkhu"
(Hãy đến ! Tỳ kheo).
Thế
nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần của Tỳ kheo Angulimala vẫn không được yên ổn.
Thường xuyên, ông bị ám ảnh bởi tiếng kêu khóc của những người ông đã sát hại.
Một hôm, đi khất thực, ông bị quần chúng đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện,
lỗ đầu, chảy máu. Ðức Phật giải thích cho Angulimala biết, đó là Angulimala trả
nợ nghiệp ác cũ của mình.
Một ngày,
Angulimala đi khất thực, gặp một người đàn bà trở dạ, khó sanh và đang vô cùng
đau đớn. Không biết làm sao được, Angulimala trở về hỏi Ðức Phật. Ðức Phật bày
cho Angulimala đem lời sau đây nói với người đàn bà:
"Này
bà chị, từ khi tôi sanh trở lại trong hàng Thánh chúng, tôi không có giết hại
bất cứ một loại hữu tinh nào. Cầu mong lời nói thật này giúp cho bà chị được
khỏi đau đớn, con của bà chị được sanh nở an toàn".
Angulimala
học thuộc lời Ðức Phật, và đến nói với người đàn bà đau đớn, khó sanh. Lập tức,
người đàn bà hết đau, và hạ sanh đứa con dễ dàng. Lời nầy của Ðức Phật được gọi
là Angulimala Paritta. Ngày nay, ở các xứ Phật giáo Nam phương, người ta vẫn có
tập tục đọc lời Angulimala Paritta để làm dịu cơn đau đẻ của phụ nữ.
Sau này,
Angulimala chứng quả A la hán.
30. Ðức Phật và kỹ nữ Ambapali
Ambapali là người kỹ nữ nổi danh tài sắc của thành phố Vesali. Trên đường đi Kusinara, để nhập Niết bàn, Ðức Phật dừng lại Vesali, và nghỉ ở vườn xoài của Ambapali. Ðược tin, Ambapali đến chào Ðức Phật, và trân trọng mời Ðức Phật và chúng Tăng đến dùng tiệc trai ngày mai tại nhà bà. Ðức Phật nhận lời, và từ chối lời mời của hàng quý tộc Liechavi. Họ hứa trả bà Ambapali một số tiền rất lớn, để bà nhường lại cho quý tộc Liechavi đặc ân được thiết cơm Phật và chúng Tăng nhưng bà từ chối và hôm sau, y lời hẹn, Ðức Phật và chúng Tăng đến với nhà bà Ambapali dùng tiệc trai. Sau bữa tiệc, Ambapali kính tặng Ðức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tinh xá. Sau này, Ambapali cũng xuất gia và chứng quả A la hán.
Ambapali là người kỹ nữ nổi danh tài sắc của thành phố Vesali. Trên đường đi Kusinara, để nhập Niết bàn, Ðức Phật dừng lại Vesali, và nghỉ ở vườn xoài của Ambapali. Ðược tin, Ambapali đến chào Ðức Phật, và trân trọng mời Ðức Phật và chúng Tăng đến dùng tiệc trai ngày mai tại nhà bà. Ðức Phật nhận lời, và từ chối lời mời của hàng quý tộc Liechavi. Họ hứa trả bà Ambapali một số tiền rất lớn, để bà nhường lại cho quý tộc Liechavi đặc ân được thiết cơm Phật và chúng Tăng nhưng bà từ chối và hôm sau, y lời hẹn, Ðức Phật và chúng Tăng đến với nhà bà Ambapali dùng tiệc trai. Sau bữa tiệc, Ambapali kính tặng Ðức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tinh xá. Sau này, Ambapali cũng xuất gia và chứng quả A la hán.
Hai sự
kiện Angulimala và Ambapali cho thấy, cửa Ðạo Từ Bi mở rộng cho tất cả mọi
người, không phân biệt giàu sang, nghèo hèn và đẳng cấp xã hội. Một tướng cướp
như Angulimala, một dâm nữ như Ambapali, nếu thành tâm hối lỗi, cũng có thể
xuất gia, tinh tấn tu học và chứng Thánh quả cao nhất. Một lòng tin thuần
thành, và một nỗ lực lớn nhất: đó là điều kiện cơ bản để đi vào đạo Thánh và
trở thành bậc Thánh trên thế giới này. Ðạo Phật không đòi hỏi một điều kiện nào
khác.
31. Ðức Phật tuyên bố sẽ nhập Niết Bàn
Ðức Phật năm nay tròn 80 tuổi. Ngài nhận định sự nghiệp thuyết pháp, giáo hóa độ sanh của Ngài đã hoàn thành. Thời điểm đã đến để Ngài nhập Niết bàn. Trên đường đi Kusinara, khi Ðức Phật dừng chân tại Vaisali, ở Tinh Xá Capala, Ngài đã tuyên bố với tôn giả Ananda là ba tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết bàn. Ngài không chấp nhận lời yêu cầu của Ananda, xin Ngài sống thêm một kiếp nữa, vì hạnh phúc, vì an lạc của chúng sanh. Ðức Phật giảng cho ông Ananda về tính vô thường của mọi sự vật trên thế gian này, và bảo ông Ananda tập hợp chúng Tỳ kheo ở Vaisali lại ở Tinh Xá Mahavana, để nghe Phật thuyết pháp.
Ðức Phật năm nay tròn 80 tuổi. Ngài nhận định sự nghiệp thuyết pháp, giáo hóa độ sanh của Ngài đã hoàn thành. Thời điểm đã đến để Ngài nhập Niết bàn. Trên đường đi Kusinara, khi Ðức Phật dừng chân tại Vaisali, ở Tinh Xá Capala, Ngài đã tuyên bố với tôn giả Ananda là ba tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết bàn. Ngài không chấp nhận lời yêu cầu của Ananda, xin Ngài sống thêm một kiếp nữa, vì hạnh phúc, vì an lạc của chúng sanh. Ðức Phật giảng cho ông Ananda về tính vô thường của mọi sự vật trên thế gian này, và bảo ông Ananda tập hợp chúng Tỳ kheo ở Vaisali lại ở Tinh Xá Mahavana, để nghe Phật thuyết pháp.
Rồi Ðức
Phật nói với chúng Tỳ kheo những lời lẽ như sau: "Này các Tỳ kheo! Mọi
pháp đều vô thường. Hãy siêng năng phấn đấu. Như Lai sắp nhập Niết bàn. Từ nay
trong vòng 3 tháng nữa, Như Lai sẽ nhập Niết bàn. Tuổi Ta đã già, cuộc sống con
người ngắn ngủi. Ta sẽ vĩnh biệt các người. Hãy tinh tấn, chánh niệm tỉnh giác
và sống đạo đức. Người nào sống không phóng dật trong giới luật, người đó sẽ
được giải thoát khỏi sanh tử luân hồi và chấm dứt mọi đau khổ".
Và một
lần cuối cùng, nhìn thành phố Vaisali, Ðức Phật nói chúng Tỳ kheo:
"Giới,
định, và tuệ, giải thoát tối hậu. Ðó là những điều Như Lai thực hiện".
32. Buổi ăn cuối cùng của Ðức Phật
Từ Vaisali, Ðức Phật cùng với tôn giả Ananda và chúng Tỳ kheo lên đường đi Kusinara. Dọc đường, Ðức Phật cùng chúng Tăng dừng lại ở nhiều nơi, tiếp xúc với dân chúng, thuyết pháp độ sanh.
Từ Vaisali, Ðức Phật cùng với tôn giả Ananda và chúng Tỳ kheo lên đường đi Kusinara. Dọc đường, Ðức Phật cùng chúng Tăng dừng lại ở nhiều nơi, tiếp xúc với dân chúng, thuyết pháp độ sanh.
Ở Pava,
người thợ rèn Cunda (Thuần Ðà) thết tiệc trai Ðức Phật và chúng Tăng. Cunda
chuẩn bị riêng cho Ðức Phật một món ăn đặc biệt, gọi là sùkaramaddava. Ðức Phật
khuyên Cunda dành riêng dĩa thức ăn đó cho Ðức Phật, và phần còn lại của dĩa
phải đem chôn đi. Và nói: "Chỉ có Như Lai mới ăn và tiêu hóa được thức ăn
này mà thôi".
Ăn xong,
Ðức Phật bị kiết lỵ nặng. Ngài tuy mệt nhưng vẫn giữ tinh thần bình thản và
quyết định lại lên đường đi Kusinara, cách Pava khoảng 6 dặm. Ðức Phật tắm lần
cuối cùng ở sông Kakutthi, và sau khi nghỉ một lát, Ngài nói với Ðại đức
Ananda: "Có thể có người trách Cunda về bữa cơm cuối cùng dọn cho Ta, vì
sau bữa ăn đó Ta sẽ nhập Niết bàn, và Cunda có thể ăn năn hối hận. Nhà ngươi
cần nói cho Cunda biết rằng, có hai bữa ăn cúng dường cho Như Lai, đem lại công
đức lớn nhất cho người cúng dường. Ðó là bữa ăn cúng dường Như Lai trước giờ
Như Lai thành đạo và bữa ăn cúng dường Như Lai trước giờ Như Lai nhập Niết bàn.
Hãy nói cho Cunda biết rằng, nhờ đã cúng dường Như Lai bữa ăn cuối cùng trước
khi Như Lai nhập Niết bàn, Cunda được phúc đức lớn, quả báo lớn, nhờ đó mà
Cunda được thọ mạng lâu dài, tái sanh ở cõi lành, giàu có, tiếng tăm, được sanh
lên cõi trời và có quyền lực lớn. Này Ananda, ngươi hãy nói như vậy để loại bỏ
mọi nỗi ân hận của Cunda, nếu có".
Nói xong,
Ðức Phật đến vườn cây Sala ở Kusinara, nơi có bộ tộc Mallas ở, và bảo Ðại đức
Ananda chuẩn bị chỗ nằm, để Ðức Phật yên nghỉ, đầu hướng Bắc, nằm nghiêng mình,
chân phải để trên chân trái, bình thản, tỉnh táo.
33. Cách tốt đẹp nhất để tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến
Như Lai
Thấy các cây Sala trổ hoa trái mùa, và các biểu hiện khác của niềm tin tưởng, quý mến, tôn trọng Như Lai, Ðức Phật bèn nói với các Tỳ kheo có mặt như sau:
Thấy các cây Sala trổ hoa trái mùa, và các biểu hiện khác của niềm tin tưởng, quý mến, tôn trọng Như Lai, Ðức Phật bèn nói với các Tỳ kheo có mặt như sau:
"Này
Ananda, không nên tôn trọng, đảnh lễ, tán thán, quý mến Như Lai theo kiểu như
vậy. Nhưng bất cứ Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào, Ưu bà tắc hay Ưu bà di nào mà
sống đúng với Chánh pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh,
thì chính người đó tôn trọng, đảnh lễ, tán thán và quý mến Như Lai một cách tốt
đẹp nhất. Do đó, này Ananda, các người phải tu tập như vậy. Mọi người hãy sống
đúng với chánh pháp, tự mình ứng xử hợp với đạo, có hành động chân chánh".
34. Bốn địa điểm chiêm bái
Rồi Ðức Phật nói tới bốn địa điểm có liên hệ tới Ðức Phật, mà Phật tử có thể đến chiêm bái. Ðó là:
Rồi Ðức Phật nói tới bốn địa điểm có liên hệ tới Ðức Phật, mà Phật tử có thể đến chiêm bái. Ðó là:
1. Nơi Ðức Phật giáng sinh, ở vườn Lumbini (Lâm tỳ
ni) tại vùng biên giới Ấn Ðộ - Nepan.
2. Nơi Ðức Phật thành đạo ở Bodhi Gaya (Bồ Ðề Ðạo
Tràng).
3. Nơi Ðức Phật bắt đầu chuyển thành bánh xe Pháp (Sarnàth)
tức là Vườn Nai gần Benarès.
4. Nơi Ðức Phật nhập Niết bàn ở Kusinàra (nay là
Kasia, cách 32 dặm nhà ga Gorakbpur).
Ðức Phật
dạy rằng: "Những người nào qua đời trong quá trình đi chiêm bái, với lòng
có đức tin, thì sẽ được sanh lên các cõi trời".
35. Ðức Phật hóa độ cho người cuối cùng: du sĩ Subhadda
Bấy giờ có du sĩ Subhadda, đang sống ở Kusinara, biết tin Ðức Phật sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối cùng của đêm nay ở Kusinara. Du sĩ có suy nghĩ như sau: "Các đạo sư lớn tuổi, các du sĩ thường nói với ta rằng sự kiện Như Lai, bậc toàn giác xuất hiện ở đời là hiếm có, rất hiếm có. Vào canh cuối cùng đêm nay, Ðức Phật Thích Ca, bậc Toàn giác sẽ nhập diệt. Ở đây ta có lòng tin Ðức Phật, có thể là Ngài sẽ thuyết pháp cho ta để ta được giác ngộ".
Bấy giờ có du sĩ Subhadda, đang sống ở Kusinara, biết tin Ðức Phật sẽ nhập Niết bàn vào canh cuối cùng của đêm nay ở Kusinara. Du sĩ có suy nghĩ như sau: "Các đạo sư lớn tuổi, các du sĩ thường nói với ta rằng sự kiện Như Lai, bậc toàn giác xuất hiện ở đời là hiếm có, rất hiếm có. Vào canh cuối cùng đêm nay, Ðức Phật Thích Ca, bậc Toàn giác sẽ nhập diệt. Ở đây ta có lòng tin Ðức Phật, có thể là Ngài sẽ thuyết pháp cho ta để ta được giác ngộ".
Rồi du sĩ
Subhadda đi đến rừng cây Sala, và xin Ðại đức Ananda cho được gặp Ðức Phật.
Nhưng ông Ananda nói là Ðức Phật đang mệt, không thể tiếp được. Subhadda ba lần
thỉnh cầu, Ðại đức Ananda đều không chấp nhận. Nhưng Ðức Phật nghe câu chuyện
giữa Ðại đức Ananda và du sĩ Subhadda, bèn nói với Ðại đức Ananda rằng:
"Hãy để cho Subhadda vào. Ông ta đến đây để mong được nghe pháp, được giác
ngộ, chứ không phải để làm phiền Ta, và những lời Ta nói, Subhadda sẽ có thể
hiểu được".
Ðức Phật
nói cho Subhadda nghe về con đường đạo tám nhánh, và chỉ có những người tu học
theo pháp và luật của Như Lai, mới thực hành con đường đạo tám nhánh và mới có
thể trở thành đệ nhất Sa môn, đệ nhị Sa môn, đệ tam Sa môn, đệ tứ Sa môn.
Subhadda vô cùng hoan hỷ và xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ðồng thời
xin được xuất gia làm Tăng, ngay bây giờ trước mặt Ðức Phật. Tuy rằng theo
luật, đáng lý, Subhadda vốn là du sĩ ngoại đạo, phải trải qua 4 tháng thử thách
và sau đó, nếu Tăng chúng chấp nhận, mới được thọ giới Tỳ kheo. Nhưng vì trường
hợp rất đặc biệt, Ðức Phật đặc cách cho Subhadda miễn trải qua 4 tháng thử
thách và bảo Tôn giả Ananda truyền thụ giới Tỳ kheo cho Subhadda. Subhadda sau
một thời gian tu học tinh tấn, trở thành một A la hán. Ông là người được Phật
hóa độ cuối cùng.
36. Những lời dạy cuối cùng của Ðức Phật
Ðức Phật thấy Ðại đức Ananda buồn khóc, bèn thân mật an ủi, tán thán đức hạnh của Ðại đức Ananda như là một thị giả, một đệ tử kiểu mẫu, và khích lệ Ðại đức phấn đấu tinh tấn để sớm được giải thoát, trở thành A la hán. Sau đó, Ðức Phật nói với Ðại đức Ananda đi báo cho dân chúng Mallas biết là Như Lai sắp nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay tại rừng cây Sala.
Ðức Phật thấy Ðại đức Ananda buồn khóc, bèn thân mật an ủi, tán thán đức hạnh của Ðại đức Ananda như là một thị giả, một đệ tử kiểu mẫu, và khích lệ Ðại đức phấn đấu tinh tấn để sớm được giải thoát, trở thành A la hán. Sau đó, Ðức Phật nói với Ðại đức Ananda đi báo cho dân chúng Mallas biết là Như Lai sắp nhập Niết bàn vào canh cuối đêm nay tại rừng cây Sala.
Ðược tin
đông đảo dân chúng Mallas, đàn ông, đàn bà, người già, thanh niên, trẻ con tấp
nập kéo đến rừng cây Sala bày tỏ lòng tôn kính, thương tiếc và vĩnh biệt Ðức
Phật lần cuối cùng. Sau đây là những lời dặn của Ðức Phật với chúng đệ tử,
trước khi ngài nhập Niết bàn.
"Này
Ananda, có thể các ngươi nghĩ rằng: Chỉ còn lại giáo phái cao cả mà không còn
bậc Ðạo sư, chúng ta không còn có bậc Ðạo sư nữa. Không! Ananda, các ngươi
không được nghĩ như vậy, Pháp và Luật mà ta đã dạy, tuyên bố sẽ là đạo sư của
các ngươi, sau khi Ta nhập Niết bàn."
"Này
Ananda, Tăng chúng nếu muốn, có thể bỏ các giới luật phụ và nhỏ, sau khi Ta
nhập Niết bàn".
"Này
các đệ tử của Ta, nếu các ngươi còn có nghi ngờ gì về Phật, Pháp, Tăng hay về
con đường đạo, về phương pháp thì hãy hỏi Ta, đừng để sau này hối tiếc, nghĩ
rằng, đối diện với Như Lai mà không hỏi được Như Lai câu nào!"
Ðức Phật
nói xong, chúng đệ tử đều im lặng, Ðức Phật hỏi tới ba lần, chúng đệ tử đều im
lặng.
Ðức Phật
nói: "Có thể vì các ngươi tôn trọng bậc đạo sư mà không đặt câu hỏi chăng?
Thì hãy để một người nói thay vậy". Một lần nữa, chúng đệ tử vẫn im lặng.
Ðại đức
Ananda bạch Phật rằng: "Tuyệt vời thay! Hy hữu thay! Thưa đức Thế Tôn.
Trong hàng đệ tử chúng con ở đây, không có một người nào nghi ngờ và thắc mắc
gì đối với Phật, Pháp, Tăng, con đường đạo và phương pháp".
Ðức Phật
nói: "Này Ananda, nhà ngươi nói vì niềm tin đối với Như Lai, Như Lai biết
rõ là, trong chúng đệ tử có mặt tại đây, không có người nào còn nghi ngờ thắc
mắc đối với Pháp, Tăng, con đường đạo và phương pháp. Trong số năm trăm đệ tử
này, này Ananda, người kém nhất cũng đã chứng quả Dự Lưu, không còn thoái chuyển
nữa, cuối cùng chắc chắn sẽ được giác ngộ".
Câu nói
cuối cùng của Ðức Phật là: "Hỡi các đệ tử, Ta khích lệ các người,
mọi pháp hữu vi đều biến hoại. Hãy tích cực phấn đấu!". Thế rồi đức
Thế Tôn im lặng. Ngài lặng lẽ nhập định, tuần tự trải qua các cấp thiền từ thấp
tới cao, rồi cuối cùng chủ động nhập Niết bàn.
37. Lễ Trà tỳ và sự phân chia xá lợi của Phật
Thi hài Ðức Phật được dân chúng Mallas trân trọng đưa tới Makutabandhana, và để ở đó bảy ngày trước khi tổ chức lễ trà tỳ chính thức (hỏa táng). Tôn giả Maha Kassapa cũng về đây để đảnh lễ vĩnh biệt Ðức Phật lần cuối cùng và chủ trì lễ hỏa táng. Sau lễ trà tỳ, dân chúng Mallas thu thập xá lợi để cúng dường. Các nước lân cận và nhất là vua Ajatasattu cũng đòi một phần Xá lợi. Vì ban đầu dân chúng Mallas không chịu, cho nên có nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh xung quanh việc phân chia xá lợi. Nhưng cuối cùng, các bên cũng thỏa thuận được với nhau là xá lợi Phật chia làm tám phần, phân phối cho dân chúng Mallas, vua Ajatasattu xứ Magadha, bộ tộc Liechavi ở Vaisali, bộ tộc Sakya ở Kapitavastu, bộ tộc Bulaka ở Calakalna, bộ tộc Krandya ở Ramagrama, những người Bà la môn ở Visudvipa, những người Mallas ở Pava.
Thi hài Ðức Phật được dân chúng Mallas trân trọng đưa tới Makutabandhana, và để ở đó bảy ngày trước khi tổ chức lễ trà tỳ chính thức (hỏa táng). Tôn giả Maha Kassapa cũng về đây để đảnh lễ vĩnh biệt Ðức Phật lần cuối cùng và chủ trì lễ hỏa táng. Sau lễ trà tỳ, dân chúng Mallas thu thập xá lợi để cúng dường. Các nước lân cận và nhất là vua Ajatasattu cũng đòi một phần Xá lợi. Vì ban đầu dân chúng Mallas không chịu, cho nên có nguy cơ bùng nổ một cuộc chiến tranh xung quanh việc phân chia xá lợi. Nhưng cuối cùng, các bên cũng thỏa thuận được với nhau là xá lợi Phật chia làm tám phần, phân phối cho dân chúng Mallas, vua Ajatasattu xứ Magadha, bộ tộc Liechavi ở Vaisali, bộ tộc Sakya ở Kapitavastu, bộ tộc Bulaka ở Calakalna, bộ tộc Krandya ở Ramagrama, những người Bà la môn ở Visudvipa, những người Mallas ở Pava.
Bà la môn
Dona, người tổ chức thành công việc phân chia Xá lợi, dành lấy cho mình cái
bình đựng Xá Lợi. Những người Maurya ở Pipphalirana, vì đến chậm, chỉ nhận được
tro còn lại của giàn hỏa. Các bên được phân chia Xá Lợi, đều xây tháp ở quốc
gia mình để cúng dường. Như vậy, có tất cả 10 tháp: tám tháp đựng Xá Lợi của
Phật, một tháp xây trên bình chứa Xá Lợi, và một tháp thờ tro của giàn hỏa.
Kết luận
Trên đây
là sơ lược tiểu sử Phật Thích Ca, căn cứ vào các nguồn tư liệu chính thống của
kinh sách Ðạo Phật. Trong tiểu sử đó, phần nào là sự thật lịch sử, phần nào là
huyền thoại và thần thoại, do các thế hệ đệ tử và tín đồ sùng kính Phật thêm
vào về sau này, đó là điều chúng ta không thể xác định được. Thế nhưng, dựa vào
các tài liệu rải rác và được hệ thống hóa lại, chúng ta có thể có mấy nhận định
sau đây về nhân vật Thích Ca, khác với các giáo chủ các tôn giáo khác như thế
nào.
1. Phật
không phải là Thượng đế tạo thế và cứu thế. Phật, theo đúng nghĩa của từ Phật,
là bậc giác ngộ, và ai giác ngộ được như Phật đều gọi là Phật. Vì vậy, theo
Phật giáo thì đã có nhiều Phật trước Phật Thích Ca và sau Phật Thích Ca, cũng
sẽ có nhiều Phật ra đời nữa. Ðạo Phật thủy chung bác bỏ quan niệm siêu hình về
một cái nhân ban đầu, từ con số không mà sinh ra được thế giới, vạn vật, v.v.
Chủ thuyết của Ðạo Phật là mọi sự đều do nhiều nhân, nhiều duyên sinh ra, gọi
là thuyết nhân duyên sinh. Phật cũng không phải là một đấng cứu thế, vì Phật
"Chỉ dạy về con đường và nếu các người đi theo con đường này, mọi đau khổ
sẽ đoạn tận". (Pháp Cú, kệ 275).
Phật luôn
luôn nhắc nhở đệ tử là tự mình làm cho mình trở nên trong sạch. Và cũng tự mình
làm cho mình dơ bẩn. Chứ không ai làm cho ai được trong sạch hay dơ bẩn cả.
"Tự mình điều ác làm,
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình ác không làm
Tự mình làm thanh tịnh
Tịnh không tịnh tự mình
Không ai thanh tịnh ai". (Pháp Cú, kệ 165).
Tự mình làm nhiễm ô.
Tự mình ác không làm
Tự mình làm thanh tịnh
Tịnh không tịnh tự mình
Không ai thanh tịnh ai". (Pháp Cú, kệ 165).
Chính vì
những lý lẽ trên mà nhiều đạo giáo khác cho rằng đạo Phật là vô thần, theo
nghĩa đạo Phật không công nhận có Thượng đế tạo thế và cứu thế. Nhưng ít có tôn
giáo nào đề cao con người và tình thương con người như đạo Phật.
Thậm chí,
có người nói đạo Phật không phải là tôn giáo, bởi vì đã là tôn giáo thì phải
công nhận thế giới do Thượng đế sáng tạo và người phải có linh hồn. Nhưng đạo
Phật đồng thời bác bỏ cả thuyết Thượng đế và thuyết linh hồn.
Nhưng đạo
Phật vẫn là một tôn giáo, ở chỗ, thứ nhất, nó có một Giáo chủ, một đức Bổn sử
là Phật Thích Ca, mặc dù đã nhập diệt cách đây hơn 2500 năm, nhưng vẫn là đối
tượng quy ngưỡng của hàng triệu triệu tín đồ Phật tử hiện nay trên khắp thế
giới. Thứ hai, nó có một hệ thống giáo lý được ghi lại trong ba tạng kinh điển
có nguyên tắc bằng hai cổ ngữ chính là Pali và Sanskrit, và hiện nay đã được
dịch ra hầu hết các ngôn ngữ chính trên thế giới. Thứ ba, nó có một giáo đoàn
tăng sĩ, chấp nhận và thực hành mọi quy tắc được Phật chế định ngay lúc khi
Ngài còn tại thế, và được ghi lại trong giới bổn Patimokkha.
2. Phật
luôn luôn khuyến cáo đệ tử là phải tin ở sức mình, ở khả năng của mình thành
tựu đích giác ngộ và giải thoát tối hậu. Trong những ngày cuối cùng của cuộc
đời mình, Phật nói với tôn giả Ananda, người đệ tử thân cận của mình như sau:
"Hãy dựa vào bản thân mình, như là ngọn đèn sáng cho chính mình. Hãy dựa
vào sức của bản thân mình là chính. Hãy dựa vững vàng vào Chánh Pháp. Ðừng có
tìm một chỗ dựa nào khác ngoài bản thân mình".
Có thể
nói, đặc sắc của Phật Thích Ca như là một giáo chủ, là không áp đặt một quyền
lực nào hết lên trên con người. Phật không bao giờ cường điệu tính yếu hèn,
tính tội lỗi nơi con người, trái lại, Phật luôn luôn nhấn mạnh con người có đầy
đủ bản chất hướng thiện, đồng thời có đầy đủ khả năng tự hoàn thiện mình. Tự
mình cố gắng và phấn đấu, thì mình sẽ được giác ngộ và giải thoát. Ðó là lời
khuyên thường được nhắc đi, nhắc lại của Phật Thích Ca.
3. Phật
Thích Ca không phải là một nhà cách mạng và hoạt động xã hội theo ý nghĩa hiện
đại của từ đó, nhưng quan điểm xã hội của Phật rất rõ ràng. Phật không tán
thành chế độ đẳng cấp xã hội ở Ấn Ðộ. Giáo hội Tăng già do Phật sáng lập không
phân biệt đẳng cấp xã hội. Phật nói: "Hỡi các Tỳ kheo, cũng như các con
sông lớn, sông Hằng Hà, sông Yamuna, sông Aciravati, sông Sarabhu, sông Mahi,
khi chúng đổ vào biển thì chúng mất tên gọi trước đây của chúng, và được gọi
cùng một tên là biển cả mà thôi, cũng như vậy, bốn đẳng cấp Sát đế lợi, Bà la
môn, Vệ xá, và Thủ đà la, một khi họ đã đến với Pháp và Luật do Như Lai giảng
thuyết, từ cuộc sống gia đình đến cuộc sống không nhà thì họ cũng đều mất tên
gọi trước đây của họ, bộ lạc cũ của họ, và được gọi cùng một tên là tu
sĩ".
Trong
hàng ngũ đệ tử của Phật khi Phật còn tại thế, xuất gia cũng như tại gia, đều có
đủ các hạng người thuộc đủ mọi đẳng cấp, từ các vua chúa lớn nhất của các vương
quốc hùng mạnh tại Ấn Ðộ thời bấy giờ như vua Bimbisara, vua Ajatassattu, vua
Pasenadi v.v.. cho đến các giáo sĩ Bà La Môn nổi danh là thông minh, cao đạo
như anh em Kassapa, hai ông Sariputta và Moggalana cho đến anh thợ cạo thuộc bộ
tộc Sakya là Upali, ngưòi dâm nữ nổi danh tài sắc thành Vaisali là Ambapali,
tên cướp khét tiếng tàn ác là Angulimala ở Kosala.
Tất cả
mọi người, không kể trí, ngu, sang, hèn, nếu thành tâm cầu đạo, ăn năn lỗi trước,
đều có thể tu đạo, và chứng đạo, trở thành bậc Thánh giữa chúng sanh, chứng
ngay Niết Bàn trên cõi thế. Phật luôn luôn nhấn mạnh tính bình đẳng giữa người
và người với nhau. Phật nói về những người thuộc đẳng cấp Bà La Môn, vốn thường
tự xem mình là tầng lớp xã hội thượng đẳng: "Là Bà La Môn hay là tiện dân
không phải là do sinh đẻ mà là do hành động của bản thân mình. Người Bà La Môn
hay là tiện dân không phải là do sinh đẻ mà là do hành động của bản thân mình.
Người Bà La Môn không phải sinh ra từ lửa, nhờ có hai thanh gỗ ma xát nhau,
cũng không phải từ trên trời rơi xuống hay là từ gió bay ra, cũng không phải từ
dưới đất chui lên. Những người Bà La Môn cũng sinh ra từ bụng mẹ hoàn toàn
giống nhau như người Thủ Ðà la vậy. Mọi người đều có quan năng trong cơ thể
tương tự nhau, không có gì khác nhau cả. Sao lại có thể có những người tự cho
mình thuộc loại hay giống như người đặc biệt?".
Phật
không có thành kiến về giới tính, tuy rằng Phật cho rằng bản chất người phụ nữ
là yếu đuối, và Phật đã tỏ ra dè dặt khi cho thiết lập đoàn thể nữ tu sĩ đầu
tiên. Nhưng sau khi xuất gia, nhiều nữ tu sĩ đã trở thành nổi danh về đạo đức
cao khiết và học lực uyên thâm. Cũng như hai ông Sariputta và Moggalana là
Thượng thủ của Tăng chúng thời Phật, hai bà Khema và Gotami cũng được tôn là
Thượng thủ của Ni chúng. Hai bà cũng đều chứng quả A la hán.
Giáo hội
Tăng già do Phật Thích Ca sáng lập ra là một đoàn thể thật sự dân chủ. Giáo hội
đó không biết đến giáo quyền. Giáo hội đó dựa trên tinh thần đoàn kết, tương
thân, tương ái, gọi là lục hòa (sáu điều hòa hợp).
4. Phật
Thích Ca là một giáo chủ rất rộng lượng và khiêm tốn, Phật thường ví Phật Pháp
như cái bè qua sông, như ngón tay chỉ mặt trăng hay là con đường dẫn tới Chân
lý, chứ bản thân Phật pháp không phải là chân lý tối hậu. Ðã là cái bè qua sông
thì có thể có nhiều thuyền, nhiều bè khác nhau cùng qua sông; đã là ngón tay
chỉ mặt trăng thì có thể có nhiều ngón tay cùng một lúc chỉ mặt trăng; đã là
con đường dẫn tới chân lý thì có thể có nhiều con đường khác nhau dẫn tới đích
là Chân lý tối hậu.
Hai nữa,
giác ngộ và giải thoát là một thực nghiệm cá nhân, nghĩa là không ai có thể
giác ngộ hay giải thoát thay cho ai được cả. Có những điều mình làm được nhưng
người khác không làm được, mình làm dễ nhưng người khác làm khó, trong hoàn
cảnh này làm được, nhưng trong hoàn cảnh khác lại không. Một tôn giáo tầm cỡ
thế giới như đạo Phật không thể cứng nhắc hay hẹp hòi được. Ðấy là một lý do vì
sao trong đạo Phật, có lắm tôn nhiều phái, và giữa các phái với nhau, trong quá
khứ cũng như hiện nay, tuyệt đối không bao giờ có sự lấn áp trên thế mạnh dù
rằng có nhiều lúc Phật giáo có ưu thế hơn, được chính quyền trọng đãi như quốc
giáo (như trong hai triều đại Lý, Trần ở Việt Nam).
Những
Tăng Ni Phật giáo, nếu sống đúng theo giới luật nhà Phật, là những người vô sản
hoàn toán. Họ không có quyền lực, cũng không có tiền bạc. Họ chỉ có hai điều:
lòng Từ bi và Trí tuệ. Nhưng với hai vũ khí đó, đạo Phật trong một thời, đã
từng chinh phục trái tim và khối óc của đại bộ phận nhân dân thế giới cổ đại và
phong kiến [*], và hiện nay nó vẫn là một tôn giáo thế giới với hàng trăm triệu
tín đồ.
[*] Toàn bộ thời kỳ từ nửa thế kỷ IV đến cuối thế kỷ VIII sau Công
nguyên có thể được gọi là kỷ nguyên Phật giáo của lịch sử Trung Hoa. Trên thực
tế, có thể gọi đó là kỷ nguyên Phật giáo cuả lịch sử châu Á. Và có thể nói, của
cả thế giới, bởi lẽ vào thời kỳ đó, khoảng hơn một nửa dân số thế giới là tín
đồ đạo Phật. Ðạo Phật trải rộng trên toàn khắp châu Á, trừ hai vùng Siberi và
Cận Ðông, tạo thành cho cả châu lục này một sự thống nhất về văn hóa chưa từng
có. (East Asia-The Great Tradition, - Ðông Á - Truyền thống vĩ đại, tr.
147-148, Edwin O Reischauer and John K. Faichanks, Harvard University)
Trên đây
là 4 đặc điểm về nhân cách của Phật Thích Ca, như là một giáo chủ. Các Tăng sĩ,
tu sĩ Phật giáo của bất cứ một nước nào, trước đây cũng như hiện nay đều phải
lấy đó làm gương. Không thể tưởng tượong được một Tăng sĩ Phật giáo, dù cao
niên, dù bác học đến đâu mà có thái độ và giọng nói giáo quyền, sống không giản
dị, không thiểu dục, trí túc, lại kích động, chống đối và bạo loạn, vì những
mục đích danh lợi cá nhân, bày trò dị đoan để lôi kéo quần chúng, trong khi
Phật Thích Ca tuyệt đối ngăn cấm không được làm như vậy, cho rằng đó là một
việc làm xấu hổ, không nên làm.
Tăng sĩ
phải là gương sáng của đạo đức và trí tuệ, là người thầy dạy giáo pháp và đạo
đức và giới luật. Nhà chùa phải là trung tâm của trí tuệ và đạo đức, chứ không
phải là nơi chỉ có cúng kiến và lễ bái. Kinh sách Phật phải được giảng diễn cho
người đời hiểu và làm theo, chứ không phải để riêng cho giới tu sĩ đọc tụng. Ðó
là hướng tiến tới của đạo Phật chân chính sẽ còn tồn tại lâu dài trong lòng
người Việt Nam, trong cuộc sống của người Việt Nam, trên đất nước Việt Nam
chúng ta.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tỳ kheo Thích Minh Châu
Tỳ kheo Thích Minh Châu