TLNX:
Kinh niệm xứ là cẩm nang của người thực hành tỉnh giác. Các thầy hướng dẫn thực
hành tỉnh giác đều dựa trên bản kinh này để giới thiệu và chỉ dạy phương pháp
thực hành cho người học. Hôm nay chúng tôi giới thiệu bản kinh này ở đây để các
bạn đọc là thân hữu Phương Thảo Am, học viên các lớp Thực học tỉnh giác và các
bạn có quan tâm đến thiền Phật giáo cùng đọc. Bản dịch tiếng Việt này do HT. Minh Châu dịch. Những chỗ in đậm là chúng tôi cho in đậm để học viên các lớp Thực học tỉnh giác lưu ý.
KINH NIỆM XỨ (Satipatthanasutta)
Như
vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở xứ Kuru (Câu-lâu), Kammassadhamma (kiềm-ma sắt đàm) là đô thị
của xứ Kuru. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
–
Này các Tỷ-kheo,.
Các
Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn:
–
Bạch Thế Tôn.
Thế
Tôn thuyết như sau:
–
Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc
nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu,
thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.
Thế nào là bốn? Này
các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán
thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống
quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham
ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu ở đời.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân? Này các
Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng,
đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết già, lưng thẳng và an
trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác,
vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở
vô dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi
thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở ra
ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị
ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi
sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Này các
Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài,
tuệ tri: “Tôi quay dài” hay khi quay ngắn, tuệ tri: “Tôi quay ngắn”. Cũng vậy,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra dài,
tuệ tri: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, tuệ tri: “Tôi thở vô ngắn”; hay thở
ra ngắn, tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy
tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ
thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; Như vậy,
vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống
quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên
thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên
thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú
chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không
nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là
Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi,
tuệ tri: “Tôi đi”, hay đứng, tuệ
tri: “Tôi đứng”, hay ngồi, tuệ tri:
“Tôi ngồi”, hay nằm, tuệ tri: “Tôi
nằm”. Thân thể được sử dụng như thế nào,
vị ấy tuệ tri thân như thế ấy. Vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay vị
ấy sống quán thân trên ngoại thân; hay vị ấy sống quán thân trên nội thân,
ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống quán
tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân
đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh
niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này
các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, khi bước
tới bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc
mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang
áo Sanghati (Tăng già lê), mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi
ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết
rõ việc mình đang làm; khi đi, đứng,
ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng, biết rõ việc mình đang làm. Như vậy, vị ấy
sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán
thân trên cả nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên
thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên
thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú
chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy
là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho
đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong
thân này: “đây là tóc, lông, móng, răng,
da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột,
màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ
da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu”. Này các Tỷ-kheo,
cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu
xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán
sát: “Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây là
mè, đây là hột lúa đã xay rồi”. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo quán sát
thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và
chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: “đây là tóc, lông, móng,
răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi,
ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da,
nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu”. Như vậy, vị ấy sống quán
thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán thân trên
nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống
quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân
đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh
niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này
các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự
sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”.
Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đổ tể
giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này
các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các
giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”. Như vậy, vị
ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống
quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên
thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên
thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến
chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật
gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa
một ngày, hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát
thối ra. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh
là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”. Như vậy vị ấy sống quán thân trên
nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân,
ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh
diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị
ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và
vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa,
bị các loài quạ ăn, hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị
các loài chó ăn, hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo
quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy,
không vượt khỏi tánh chất ấy”. Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay
sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân.
Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên
thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy an trú chánh
niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không
nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là
Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Này
các Tỷ-kheo, lại nữa, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa,
với các bộ xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các
đường gân cột lại... với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính
thịt nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại... với các bộ xương
không còn dính thịt, dính máu, còn được các đường gân cột lại, chỉ còn có xương
không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là
xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở
đây là xương sống, ở đây là xương đầu. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này
tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”. Như
vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân;
hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh
khởi trên thân; hay vị ấy sống quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống
quán tánh sanh diệt trên thân. “Có thân đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như
vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương
tựa, không chấp trước một vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là
Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại
nữa này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa,
chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn ba năm...
chỉ còn là xương thối trở thành bột. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này
tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”. Như
vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay
sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi
trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt
trên thân. “Có thân đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng
hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp
trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân
trên thân.
Này
các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống
quán thọ trên các thọ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ tri: “Tôi cảm giác lạc thọ”; khi cảm giác
khổ thọ, tuệ tri: “Tôi cảm giác khổ thọ”; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ
tri: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ”. Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật
chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất”; hay khi cảm giác lạc thọ
không thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất”. Hay
khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác khổ thọ thuộc vật
chất”; hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác
khổ thọ không thuộc vật chất”. Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật
chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật chất”; hay khi cảm
giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: “Tôi cảm giác bất khổ
bất lạc thọ không thuộc vật chất”. Như vậy, vị ấy sống quán thọ trên các nội
thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống quán thọ trên các nội thọ,
ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các thọ, hay sống quán tánh
diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt trên các thọ. “Có thọ đây”,
vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm.
Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ trên các thọ.
Này
các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống
quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham,
tuệ tri: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, tuệ tri: “Tâm có sân” hay với
tâm không sân, tuệ tri: “Tâm không sân”. Hay với tâm có si, tuệ tri: “Tâm có
si”; hay với tâm không si, tuệ tri: “Tâm không si”. Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ
tri: “Tâm được thâu nhiếp”. Hay với tâm tán loạn, tuệ tri: “Tâm bị tán loạn”.
Hay với tâm quảng đại, tuệ tri: “Tâm được quảng đại”; hay với tâm không quảng
đại, tuệ tri: “Tâm không được quảng đại”. Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: “Tâm hữu
hạn”. Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: “Tâm vô thượng”. Hay với tâm có định, tuệ
tri: “Tâm có định”; hay với tâm không định, tuệ tri: “Tâm không định”. Hay với
tâm giải thoát, tuệ tri: “Tâm có giải thoát”; hay với tâm không giải thoát, tuệ
tri: “Tâm không giải thoát”.
Như
vậy vị ấy sống quán tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay
sống quán tâm trên nội tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm;
hay sống quán tánh diệt tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm.
“Có tâm đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh
trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì
trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.
Này
các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống
quán pháp trên các pháp? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm
triền cái. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các
pháp đối với năm triền cái? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ
tri: “Nội tâm tôi có ái dục”; hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri: “Nội tâm
tôi không có ái dục”. Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như
vậy; và với ái dục đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái
dục đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có sân hận, tuệ tri: “Nội tâm tôi có sân hận”; hay nội tâm không có
sân hận, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có sân hận”. Và với sân hận chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt,
vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh
khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri:
“Nội tâm tôi có hôn trầm thụy miên”; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên,
tuệ tri: “Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên”. Và với hôn trầm thụy miên
chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã
sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy miên đã
được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội
tâm có trạo hối, tuệ tri: “Nội tâm tôi có trạo hối”; hay nội tâm không có trạo
hối, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có trạo hối”. Và với trạo hối chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã sanh nay được đoạn diệt,
vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã được đoạn diệt, tương lai không sanh
khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ tri: “Nội tâm tôi có
nghi”; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri: “Nội tâm tôi không có nghi”. Và với
nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã sanh nay
được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai
không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Như
vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại
pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán
tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay
sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an
trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy
sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo,
như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.
Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán
pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo
sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy
tư: “Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Đây là thọ, đây là thọ tập,
đây là thọ diệt. Đây là tưởng, đây là tưởng tập; đây là tưởng diệt. Đây là
hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Đây là thức, đây là thức tập, đây là
thức diệt”. Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp
trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị
ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các
pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy
sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và
vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn.
Lại
nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán
pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Này các Tỷ-kheo, thế nào là
Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ? Này các Tỷ-kheo,
ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai pháp này, kiết
sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị
ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri
như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy... tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... tuệ tri mũi và tuệ tri
các hương... tuệ tri lưỡi... và tuệ tri các vị... tuệ tri thân và tuệ tri các
xúc, tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết sử sanh khởi,
vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri
như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và
với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như
vậy. Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên
các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy
sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các
pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy
sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và
vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các
Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại
xứ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy
Giác chi. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp
đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo nội tâm có niệm giác chi,
tuệ tri: “Nội tâm tôi có niệm giác chi”; hay nội tâm không có niệm giác chi,
tuệ tri: “Nội tâm tôi không có ý niệm giác chi”. Và với niệm giác chi chưa sanh
nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đã sanh, nay được tu
tập viên thành, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạch pháp giác chi...
(như trên)... hay nội tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có
hỷ giác chi... (như trên)... hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)...
hay nội tâm có định giác chi... (như trên)... hay nội tâm có xả giác chi, tuệ
tri: “Nội tâm tôi có xả giác chi”; hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri:
“Nội tâm tôi không có xả giác chi”. Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi,
vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành,
vị ấy tuệ tri như vậy. Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống
quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại
pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt
tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở
đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên
đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với
Bảy Giác chi.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế. Này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế? Này các
Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: “Đây là Khổ”; như thật tuệ tri: “Đây
là Khổ tập”; như thật tuệ tri: “Đây là Khổ diệt”; như thật tuệ tri: “Đây là Con
đường đưa đến Khổ diệt”. Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay
sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại
pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt
tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở
đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí,
chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên
đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với
Bốn Thánh đế.
Này
các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ
này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là
chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất
hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm
xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm,
trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một
là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất
hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ
này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng
Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này
trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai
tháng, trong một tháng, trong nửa tháng,
vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong
hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không
cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là
chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất
hoàn... Này các Tỷ-kheo, đây là con
đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ
khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.
Thế
Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.