Damien Keown (Kim Oanh dịch)
Một lần nọ, Đức Phật kể một câu chuyện
về những người mù và con voi (Udāna 69f.). Có một vị vua ở thành Xá Vệ ra
lệnh tập hợp tất cả những người mù lại và phân chia họ thành nhiều
nhóm. Mỗi nhóm được đưa đến một con voi và giới thiệu về từng phần khác nhau
của con vật - như là phần đầu, phần thân, chân, đuôi... Sau đó, nhà vua yêu cầu
mỗi nhóm mô tả thực tướng của con vật. Những người sờ đầu thì mô tả con voi
như một bình đựng nước; những người sờ tai thì cho rằng nó bè bè giống
như cái quạt thóc; những người sờ chân thì nói nó sừng sững như cái
cột đình, và những người sờ ngà thì khẳng định rằng nó có hình dạng
như cái đòn càn. Những nhóm còn lại thì tranh cãi nhau, khăng khăng cho
rằng nhận xét của mình là chính xác còn những người khác thì sai.
Quá trình nghiên cứu Phật giáo trong
những thế kỷ vừa qua cũng giống như cuộc gặp gỡ của những người mù và con voi
theo nhiều cách khác nhau. Những người học Phật có khuynh hướng tự giới hạn
mình trong một phần nhỏ của truyền thống, từ đó nhận định tổng quát về đạo Phật
và cho rằng kết luận của mình là đúng. Thường thì những phần mà họ cho rằng đã
thông suốt chỉ là một phần nhỏ mà thôi, điển hình như việc chỉ tiếp xúc với ngà
voi thôi thì chưa đủ để miêu tả hết toàn bộ thực tướng của con vật. Kết quả là
đã xuất hiện nhiều dạng khái quát hoá sai lầm và hời hợt về Đạo Phật, chẳng hạn
như cho rằng đạo Phật là ‘tiêu cực’, ‘phủ nhận thế giới’, ‘bi quan’, v.v.… Mặc
dù xu hướng khái quát hoá quá đáng này hiện nay ít phổ biến, song nó vẫn còn tồn
tại trong nhiều tư liệu cũ, ở đó các tác giả có xu hướng phóng đại đôi chút
những nét đặc trưng của truyền thống Phật giáo hoặc khẳng định những điều đúng
với bản chất của đạo Phật và được chấp nhận rộng rãi trong một nền văn hóa Phật
giáo hay một giai đoạn lịch sử nào đó.
Bài học đầu tiên từ câu chuyện của
những người mù đó là Phật giáo là một chủ đề lớn và phức tạp, và chúng ta nên
thận trọng với các dạng khái quát hoá dựa trên cơ sở quen thuộc với bất kỳ một
phần duy nhất nào. Đặc biệt, những lời phát biểu bắt đầu như ‘Phật tử tin rằng…’
hay ‘Phật giáo dạy rằng…’ phải được xem xét cẩn thận. Để những lời nhận định
như thế có giá trị hơn, chúng ta cần phải cân nhắc bằng cách đặt ra các câu hỏi
liên quan, chẳng hạn như ‘những phật tử nào
được đề cập đến, truyền thống Phật giáo nào
mà họ đang theo, họ thuộc trường phái hoặc giáo phái nào’ v.v... Một số học giả có lẽ đã đi xa hơn, và tuyên bố rằng
hiện tượng tiếp biến văn hóa được phương Tây biết đến với tên gọi ‘Đạo Phật’
(Buddhism) (danh từ ‘Buddhism’ được sử dụng phổ biến từ những năm 1830) không phải
là một thực thể duy nhất mà là một sự kết hợp của nhiều truyền thống. Nếu đúng như
vậy, có lẽ chúng ta nên nói ‘Buddhisms’ (số nhiều) chứ không phải là ‘Buddhism’
(số ít). Tuy nhiên, xu hướng giải minh hay “giải cấu trúc” Phật giáo như thế
này có lẽ tốt nhất nên được xem như một sự phản ứng lại với xu hướng “cô kết” Phật
giáo trước đây, tức là xu hướng nhìn nhận Phật giáo là một khối tổ chức đồng
nhất ở khắp mọi nơi. Thái độ “trung đạo” ở đây là hãy nhìn Phật giáo như con
voi trong câu chuyện trên: vừa có sự kết hợp kì lạ của những bộ phận khác nhau,
vừa có một bộ phận chính yếu nối kết tất cả các bộ phận khác nhau đó.
Bài học tiếp theo mà chúng ta có thể
rút ra từ câu chuyện, dù ít rõ ràng hơn nhưng không kém phần quan trọng, đó là có
rất nhiều dạng mù quáng. Những thí nghiệm về nhận thức thông qua nhãn thức đã
chứng minh rằng tâm chúng ta thường bị tác động mạnh mẽ bởi những gì chúng ta nhìn
thấy. Phần đông con người thấy biết những gì họ mong đợi hay muốn thấy biết, và
loại ra những gì không tương thích với cái mẫu thực tế của họ. Trong những nền
văn hóa khác nhau, trẻ em được nuôi dưỡng và học hỏi theo nhiều cách khác nhau,
đó cũng là lý do tại sao những phong tục dị biệt dường như gây tò mò hay xa lạ
với những người ngoài nền văn hoá đó nhưng lại rất thân thiện tự nhiên với
những người có cùng văn hóa. Khi giao lưu với những nền văn hoá khác, chúng ta
dễ dàng nhận ra tín ngưỡng và giá trị sống của mình, và từ đó khám phá ra những
tín ngưỡng và giá trị sống đó một cách rõ ràng từ hiện thực (những thông tin
gốc từ) cuộc sống. Trong cách thế đó, Đạo Phật trở thành chính những gì chúng
ta hy vọng (hay cảm thấy sợ hãi) nó là. Ngay cả những chuyên gia cũng không
tránh khỏi việc ghi chép lại những giả định của riêng mình một cách sai lầm vào
dữ liệu, và nhiều học giả phương Tây đã giải thích Đạo Phật theo những cách
thức vốn dựa trên niềm tin và hiểu biết cá nhân của họ hơn là chính Phật giáo.
Ngoài tính nhạy cảm của nhận thức
cá nhân và nhiều dạng ảnh hưởng chủ quan khác nhau, còn có nguy
cơ rập khuôn văn hóa phát sinh trong bất kỳ cuộc gặp gỡ nào với ‘người
khác’. Nhà văn đương đại Edward Said đã đặc biệt chú ý đến khuynh hướng xây
dựng một ‘Phương Đông’ trong nghệ thuật và văn học phương Tây mà cái ‘Phương
Đông’ đó chính là cái bóng của nền văn học và nghệ thuật của họ hơn là một sự
miêu tả trung thực những gì đang thực sự diễn ra ở phương Đông. Không cần thiết
phải chấp nhận thuyết tác động ngầm tinh
vi của Said rằng phương Tây đã rập khuôn Phương Đông một cách hợp lý (về tri
thức) như một khúc dạo đầu để chiếm hữu nó một cách khôn khéo (về chính trị) mới có thể nhận ra rằng trong quá trình tiếp
cận và nghiên cứu những nền văn hóa khác chúng ta không thể không bị ảnh hưởng
bởi những thái độ và giả định vốn tồn tại trong chính nền văn hóa của mình mà
chúng ta không hề ý thức. Và như thế, trong việc nghiên cứu Phật giáo, chúng ta
phải cẩn thận với nguy cơ ‘mù văn hóa’, và những hiểu lầm có thể phát sinh từ những
giả định dựa trên sự áp đặt của các thể loại và khái niệm ở phương Tây lên các
nền văn hóa và văn minh khác.