Thầy không bao giờ tìm cách bảo học trò của mình nên bố thí cúng dường.
Ngay cả khi tu viện của chúng tôi còn nghèo, Thầy không bao giờ tỏ ra túng
thiếu, không bao giờ lạm dụng lòng tri ân và lòng tin của mọi người.
[*] Có lẽ học giả Cao Hữu
Đính đã nhầm khi gọi tên tập Apadanas này là “chiến thắng vẻ vang của Đức Phật”
(Văn học sử Phật giáo, nxb Thuận Hóa,
1996, tr. 110). Theo giải nghĩa của R. C. Childers (A Dictionary of Pāli Language, 2005, p. 47), Apadanas có thể được
hiểu là tập kinh về phước thí (Chú thích của người dịch).
Không Trói Buộc:
Văn hóa Cho Nhận
trong Phật Giáo
Thanissaro Bhikkhu
(Giác Kiến dịch)
Lời
người dịch: Tỳ kheoThanissaro là một tu sĩ người Mỹ xuất gia theo truyền thống
Phật giáo Theravāda, Thái Lan. Ngài là dịch giả của hơn 1.000 bản kinh Phật từ
tiếng Pāli sang tiếng Anh phổ biến trong thế giới phương Tây. Vừa là một tu sĩ,
vừa là một học giả uy tín về Luật, Ngài còn là tác giả của nhiều đầu sách và
bài viết về con đường thể nghiệm giáo pháp, thực hành tâm linh, được xem là cẩm
nang tu tập cho những thức giả thời nay. Bài viết Không Trói Buộc: Văn hóa
Cho Nhận trong Phật Giáo (No Strings Attached: The Buddha's Culture of
Generosity) của tỳ kheo Thanissaro phản ánh một hiện tượng văn hóa đang hình
thành ở Tây phương. Đó là văn hóa cho nhận (dāna),
có nguồn gốc từ Phật giáo và khá phổ biến ở các nước Phật giáo phương Đông. Ở
Việt Nam ,
vốn thấm nhuần văn hóa phương Đông, văn hóa cho nhận được thể hiện chủ yếu qua
các hoạt động chia sẻ, cứu trợ, quyên góp, ủng hộ, bố thí và cúng dường. Các
hoạt động này là phương tiện giúp cho những người có điều kiện chia sẻ làm được
nhiều điều phước thiện và mở rộng tấm lòng nhân ái. Đây cũng là con đường phát
huy một truyền thống văn hóa cao đẹp “thương người như thể thương thân” của dân
tộc Việt, và cũng là truyền thống văn hóa đặc sắc của Phật giáo. Tuy nhiên, nếu
các hoạt động thuộc văn hóa cho nhận này được thực hiện không đúng cách, hay
nói chính xác hơn là không như Pháp theo văn hóa Phật giáo, thì chính cáchoạt động này không những
không thể hiện được giá trị văn hóa Phật giáo mà còn có thể làm tổn thương đến
Giáo Pháp. Hơn nữa, hiện nay, các hình thức tặng, biếu, xin, cho, cấp, cúng đang
là vấn đề đáng quan tâm trong Phật giáo cũng như ngoài xã hội. Chúng tôi xin
dịch và giới thiệu bài viết của Thượng tọa, hy vọng bài viết có thể góp thêm
một cái nhìn thiết thực về văn hóa cho nhận của chúng ta trong bối cảnh hiện
nay.
“Thưa Thầy, làm
sao con có thể đáp được ơn dạy dỗ của thầy?” Đó là câu hỏi mà các học trò
thường hỏi thầy mình. Lời đáp hay nhất mà tôi học được là câu trả lời của thầy
tôi, Thiền sư Fuang, mỗi khi Thầy được hỏi như vậy rằng, “bằng cách chuyên tâm
tu tập.”
Mỗi lần tôi nghe
như vậy, tôi đều cảm động bởi lời dạy ấy cao quý, nhưng đơn giản và nhân từ làm
sao. Đó không phải là khuôn sáo. Thầy không bao giờ tìm cách bảo học trò của
mình nên bố thí cúng dường. Ngay cả khi tu viện của chúng tôi còn nghèo, Thầy
không bao giờ tỏ ra túng thiếu, không bao giờ lạm dụng lòng tri ân và lòng tin
của mọi người. Điều này đã làm thay đổi suy nghĩ của tôi vì trước đây tôi có
biết một số tăng sĩ ở phố thị cũng như những tăng sĩ dân dã ở làng quê thường
tranh thủ cơ hội, khéo léo thể
hiện nhu cầu vật chất của mình, ngay cả đối với khách vãng lai.
Lần hồi thì tôi
biết thêm rằng cung cách của Thiền sư Fuang cũng là cách cư xử phổ biến của quý
sư trong truyền thống lâm thiền. Đó là cung cách mà các sư học được từ lời dạy
của Đức Phật lúc Ngài sắp nhập Niết-bàn, được ghi lại trong một đoạn kinh Pāli.
Đức Phật dạy rằng, với Ngài, lòng cung kính cao nhất dành cho Ngài không phải
là lòng cung kính được thể hiện qua vật chất, mà đó phải là lòng cung kính thể
hiện qua sự thực hành tâm linh đúng như Pháp. Hay nói cách khác, cách tốt nhất
để đáp đền ơn dạy dỗ của thầy là hết lòng sống như Pháp xứng với lòng từ mẫn
của thầy khi thầy dạy Pháp. Tôi cũng tự hào khi được dự phần vào truyền thống
đó. Nơi ấy, sự giàu có thật sự là nếp sống thanh cao được thể hiện trong cuộc
sống. Nơi ấy, như Thiền sư Fuang từng nói, chúng tôi đã không bị “kéo xuống
thành những con rối” và việc dạy Pháp Phật là một món quà trong sạch.
Khi trở lại Mỹ,
tôi thật buồn khi lần đầu tiên tôi phải nói Pháp sau lễ cúng dường. Đó là bài
Pháp thoại về văn hóa cho nhận, chia sẻ, ủng hộ, bố thí, cúng dường thông
thường vào cuối mỗi khóa chuyên tu. Ngữ cảnh và thường là cả nội dung của bài
pháp thoại loại này khiến cho nó khó có thể được xem là không vụ lợi. Pháp thoại
này nhắm đến việc khuyến khích hỗ trợ cho thầy hướng dẫn khóa tu hoặc cho tổ
chức tài trợ khóa tu để đảm bảo điều kiện cho các khóa tu tiếp theo, và
trách nhiệm này được đặt lên vai của các tu sinh dự khóa. Ngôn ngữ của pháp thoại
thường êm tai và khích lệ lắm, nhưng đem đối chiếu với câu trả lời của Thiền sư
Fuang, tôi thấy bài pháp thoại thật chẳng còn giá trị và nghĩa lý gì nữa. Nó
chẳng ra làm sao cả. Nếu những người tổ chức và thầy hướng dẫn thiền thật sự
tin tưởng vào lòng tốt của tu sinh, thì họ đâu cần phải có buổi pháp thoại như
vậy làm gì. Tình trạng còn tệ hơn nữa khi bài pháp thoại tiêu biểu về văn hóa cho
nhận, chia sẻ, ủng hộ, bố thí, cúng dường – thường đi kèm với lá thư kêu gọi
gây quỹ cho trung tâm – lại nhắc đến những gương hạnh cúng dường cho Tăng Ni ở
châu Á như là cách thức minh họa cho sự bố thí gây quỹ ở phương Tây. Nhưng khổ
nỗi, làm như vậy chỉ để cho người ta học được cái tệ nhất của Tăng Ni thay vì
học được điều hay nhất.
Tôi hiểu duyên do
của buổi pháp thoại như thế. Ở đây thầy hướng dẫn các khóa tu phần nhiều là cư
sĩ, họ vì lý tưởng mà giảng dạy miễn phí, nhưng họ cũng cần phải ăn để sống chứ.
Và khác với hàng Tăng sĩ ở châu Á, họ đâu có được thừa hưởng một truyền thống
cúng dường lâu đời. Vì vậy, pháp thoại về văn hóa cho nhận, chia sẻ, ủng hộ, bố
thí, cúng dường là một phương tiện để tạo dựng văn hóa bố thí mới ở xã hội
phương Tây. Nhưng vấn đề là khi những tập quán mới được hình thành trong Phật
giáo phương Tây, liệu những bài pháp thoại về cho nhận, chia sẻ, ủng hộ, bố
thí, cúng dường có đem được giáo pháp của Đức Phật về bố thí vào xã hội phương
Tây đúng như Pháp hay không, hay là làm cho pháp ấy bị biến dạng đi. Cách tốt
nhất để trả lời cho vấn đề này là hãy nhìn kỹ lại giáo pháp về bố thí trong ngữ
cảnh nguyên thủy của giáo pháp ấy.
Rõ ràng là bố thí
cúng dường là một sinh hoạt phát sinh từ buổi ban đầu của Phật giáo. Hẳn là việc
bố thí cúng dường đã góp phần duy trì Giáo pháp. Nếu không có truyền thống cúng
dường cho các vị du sĩ ở Ấn Độ, thì chưa chắc Đức Phật đã có đủ nhân duyên để
tìm ra mối đạo và đạt được Giác ngộ. Tăng đoàn cũng chưa chắc có cơ hội để theo
dấu chân Ngài. Trong những ý đạo của bài pháp tiệm tiến mà Đức Phật dạy, bố thí
cúng dường thường là pháp đi đầu, lần lần dẫn đến các pháp khác, đưa hành giả đến
chỗ thấu hiểu bốn chân lý, từ đó nếm được chất vị Giác ngộ đầu tiên.
Khi dạy các
nguyên lý cơ bản về nghiệp, Đức Phật thường bắt đầu bằng câu: “Có phẩm vật được
cho.” Điều ít khi được hiểu đúng ở đây là, khi nói ra như vậy, Đức Phật không
phải bàn đến ý nghĩa bề mặt của vấn đề, vì đề tài bố thí thực ra là một đề tài
có thể gây tranh cãi thời đó. Qua nhiều thế kỷ, hàng Bà-là-môn ở Ấn Độ đã luôn
luôn khuyến khích hạnh bố thí – cho đến khi nào họ nhận được vật bố thí mới thôi. Không những thế, thời đó, bố
thí cho Bà-la-môn là điều bắt buộc. Những người thuộc các giai cấp khác không
lo bố thí cho giai cấp Bà-la-môn được cho là người không biết lo tròn bổn phận
xã hội quan trọng nhất của mình. Họ tin rằng, lơ là bổn phận quan trọng này
trong đời hiện tại, những người ấy cùng với họ hàng của họ sẽ phải chịu khổ không
chỉ ở đời này mà còn ở đời sau nữa.
Chúng ta có thể
suy đoán được rằng thái độ này đã tạo ra sự phản ứng mạnh mẽ. Một số Sa-môn,
đạo sĩ thời Đức Phật đã phản bác lại thái độ của Bà-la-môn và nói rằng chẳng có
đức hạnh gì trong việc bố thí cả. Thế là sự tranh luận chia thành hai phía. Một
bên cho rằng bố thí chẳng có hạnh đức gì vì không có đời sau. Con người chỉ là
một mớ các yếu tố sinh vật lý, khi chết, thân thể sẽ trả hết về cho cát bụi (tứ
đại) mà thôi. Do vậy, bố thí chẳng có kết quả lâu dài gì. Một bên thì cho rằng
chẳng có cái gì gọi là cho ở đây cả, vì mọi thứ trong vũ trụ đều đã được an bài
bởi số phận. Nếu một người bố thí cho ai vật gì, đó không phải là thí phẩm quà
tặng gì cả, vì người bố thí không có chọn lựa nào khác hơn là phải làm như vậy.
Số phận tự nó vận hành như vậy đó.
Chính vì vậy, khi
dạy về nghiệp, Đức Phật bắt đầu bằng cách khẳng định rằng, có phẩm vật được
cho; Ngài bác bỏ cả hai xu hướng. Bố thí chắc chắn mang lại kết quả cả bây giờ
và mai sau và đó là kết quả của sự tự do chọn lựa của người bố thí. Tuy nhiên,
khác với Bà-la-môn, Đức Phật bước cao hơn một bực với nguyên tắc tự do. Khi
được hỏi nên bố thí ở đâu hay cho ai, Ngài đơn giản đáp rằng: “Ở chỗ tùy tâm.”
Hay nói cách khác – ngoài việc đền ơn cha mẹ – không có một chỗ nào chúng ta
phải thực hiện bổn phận bố thí cả. Nghĩa là chọn lựa bố thí là một hành động
hoàn toàn tự do và vì vậy bố thí là điểm bắt đầu rất hợp lý trên con đường
hướng đến tự do hoàn toàn, buông xả hoàn toàn. Đây là lý do tại sao Đức Phật đã
tiếp nhận tập tục bố thí như là một cách giảng dạy và thực hành giáo Pháp. Nhưng
để duy trì một lúc có cả hai nguyên tắc là có tự do và có kết quả trong việc bố
thí, Đức Phật đã thiết lập một văn hóa chia sẻ đặc biệt mang đậm lý tưởng Phật
giáo.
Trước hết, Ngài dạy
rằng không phải chỉ có bố thí phẩm vật mới được gọi là thí phẩm hay quà tặng. Ngài
dạy thêm rằng, thực hành các nguyên tắc đạo đức cũng là một loại thí phẩm. Đó
là một món quà, một thí phẩm rất lớn, một thí phẩm bảo vệ tất cả chúng sanh
khỏi bị tác hại do những hành động bất thiện gây ra. Giảng dạy Giáo pháp cũng
là một thí phẩm. Điều này có nghĩa là việc bố thí, chia sẻ hậu hĩ không phải là
đặc quyền của nhà giàu.
Thứ hai, Đức Phật
thiết lập một điều lệ nhằm tạo ra một thái độ tốt về việc cúng dường, bố thí,
chia sẻ hầu mang lại lợi ích cho cả người cúng dường, bố thí, chia sẻ lẫn người
thọ nhận, để đảm bảo việc cúng dường, bố thí, chia sẻ phù hợp với hai nguyên
tắc có tự do và có kết quả.
Chúng ta có xu
hướng cho rằng điều lệ không bao giờ đi đôi với ‘tự do,’ nhưng nghĩ như vậy là
vì chúng ta quên rằng tự do cũng cần có sự bảo vệ, đặc biệt là đối với thái độ
muốn được tự do chọn lựa nhưng cảm thấy bất an khi người khác cũng có tự do lựa
chọn. Những điều lệ mà Đức Phật thiết lập đều mang tính tự nguyện, Ngài không
bao giờ ép người khác thực hành giáo pháp Ngài dạy, nhưng một khi ai đó đã chấp
nhận điều lệ thì đòi hỏi cả hai bên (cho và nhận) đều phải tuân thủ những điều
lệ đó một cách nghiêm túc và hiệu quả. Chúng ta có thể hiểu rốt ráo các điều lệ
này qua ý nghĩa của sáu yếu tố mà Đức Phật chỉ dạy về một phẩm thí lý tưởng như
sau:
“Người chia sẻ,
bố thí, cúng dường hoan hỷ trước khi chia sẻ, bố thí, cúng dường; tâm phấn
khích trong khi chia sẻ, bố thí, cúng dường; và hài lòng sau khi chia sẻ, bố
thí, cúng dường. Đây là ba yếu tố thuộc về người chia sẻ, bố thí, cúng dường.
“Người thọ nhận
không tham muốn hoặc đang tập giảm bớt tham muốn; không sân giận hoặc đang tập
giảm bớt sân giận; và không lầm chấp hoặc đang tập giảm bớt lầm chấp. Đây là ba
yếu tố thuộc về người thọ nhận.” (Kinh Tăng chi, mục 6.7)
Mặc dầu đoạn kinh
này gợi ý rằng mỗi bên phải có trách nhiệm về các yếu tố thuộc phần mình, Đức
Phật nói đến văn hóa ứng xử rộng lượng trên bình diện lớn hơn cho thấy rằng cả
hai bên cho và nhận cùng chia trách nhiệm về cả sáu yếu tố, và đặc biệt là ba
yếu tố thuộc về người chia sẻ, bố thí, cúng dường. Tinh thần chia sẻ trách
nhiệm này thể hiện tốt nhất ở môi trường mà trong đó cả đôi bên đều tin tưởng
lẫn nhau.
Đối với người cúng
dường, bố thí, chia sẻ, điều này có nghĩa rằng, nếu họ muốn được hoan hỷ, phấn
khích và hài lòng với việc cho ra của mình, họ phải thấy phẩm vật được cho không
phải là công cụ đổi chác tương ứng với sự phục vụ của cá nhân người thọ nhận. Nếu
nhìn như vậy, phẩm vật ấy sẽ biến thành cách trả công, và làm mất đi hoặc phai mờ
tấm lòng gởi vào phẩm vật ấy.
Thay vào đó,
người cúng dường, bố thí, chia sẻ nên đem lòng quý kính hướng về người thọ nhận,
những người đã hoặc đang rèn luyện giữ tâm trong sạch. Họ nên cúng dường, bố
thí, trao tặng phẩm vật với lòng quý kính đặng cho hành động cúng dường, bố
thí, trao tặng đó làm tăng thêm lòng hoan hỷ mà hành động đó mang lại, và làm
cho người thọ nhận trân quý phẩm vật được cúng dường, bố thí, trao tặng đó hơn.
Tuy nhiên, trách
nhiệm thuộc về người nhận cũng không kém phần quan trọng. Để đảm bảo rằng người
cúng dường bố thí cảm thấy hoan hỷ trước khi cúng dường bố thí, người thọ nhận
không được bằng mọi cách, ép hay vòi người cúng dường. Trừ khi bịnh hay trong
tình huống người cho thỉnh ý, Tăng Ni không được hỏi xin bất cứ điều gì không phải
trong trường hợp cần kíp. Thậm chí Tăng Ni cũng không được phép gợi ý về những
gì mình thích được nhận. Khi được hỏi phẩm vật cần dâng cúng ở đâu, một lời
khuyên dành cho Tăng Ni là nên noi gương Đức Phật mà đáp rằng “Ở đâu cần phẩm vật
ấy, hoặc ở đâu phẩm vật ấy được bảo quản
tốt, ở đâu phẩm vật bạn cúng được giữ bền hơn, hoặc ở đâu bạn cảm thấy tùy
thích thì cúng.” Lời đáp này chứng tỏ chư Tăng Ni có lòng tin vào sự nhận thức
sáng suốt của người cúng dường. Chính lòng tin này là một món quà làm cho tâm của
người cúng dường hoan hỷ.
Để bảo đảm rằng
người cúng dường cảm thấy phấn khích trong khi cúng, Tăng Ni được dạy là phải
để tâm để ý trong khi thọ nhận và phải nhận với lòng quý kính. Để bảo đảm rằng
người cúng dường cảm thấy hài lòng sau khi cúng, người thọ nhận nên sống đạm
bạc, khéo dùng phẩm thí, và bảo đảm rằng phẩm thí được dùng đúng cách. Hay nói
cách khác, người thọ nhận cần chứng tỏ rằng họ đã không phụ niềm tin của người
cúng dường. Và dĩ nhiên, họ phải nỗ lực giảm dần tham muốn, sân giận và lầm
chấp trong tâm. Trong thực tế, nỗ lực này là động lực căn bản để người thọ nhận
hướng đến thành tựu quả vị giác ngộ, để cho phẩm vật cúng dường mang lại phước
báu lớn.
Bằng cách chia sẻ
trách nhiệm với lòng tin kính như vậy, cả hai bên cùng bảo vệ được sự tự do của
người cúng dường, bố thí, chia sẻ. Đồng thời họ cũng cùng nhau nuôi dưỡng các điều
kiện không những giúp lòng người được rộng mở mà còn làm cho toàn bộ Giáo pháp
ngày càng được lan tỏa.
Tương tự, nguyên
tắc có tự do và có kết quả còn làm cơ sở cho các điều lệ mà Đức Phật đã thiết
lập đặc biệt để bảo tồn Pháp thí. Ở đây, tinh thần trách nhiệm lại được chia sẻ. Để đảm bảo rằng
người thầy dạy Pháp hoan hỷ, phấn khích và hài lòng trong việc giảng dạy, người
học cần lắng nghe với lòng tôn kính, cố gắng hiểu được lời dạy, và – một khi
người học thấy rằng những gì được dạy thực sự soi sáng họ – hết lòng thực hành lời dạy để mang lại kết quả
mong muốn. Cũng như Tăng Ni thọ nhận phẩm vật cúng dường, người nhận và học
Pháp cũng có trách nhiệm giữ gìn Giáo Pháp cẩn trọng.
Trong khi đó,
người thầy dạy Pháp phải bảo đảm không xem việc dạy là hành động ‘trả nợ.’ Sự
đáp đền ơn cúng dường của mọi người đúng nghĩa hơn hết là nỗ lực chuyển hóa
tham lam, sân giận và si mê. Do đó, dạy không phải vì buộc phải dạy; có như vậy
thì hành động dạy mới là một món quà trong sạch, món quà tự do. Thêm vào đó,
Đức Phật đã dạy rằng dạy Pháp không vì mong cầu lợi dưỡng. Khi người thọ pháp ‘trả
phí’ cho việc dạy, người thầy nên từ chối thù lao đó. Đức Phật cũng đã đặt ra
cái lệ rằng, hàng xuất gia chỉ nên dạy về phước báu cúng dường sau khi
hành động cúng dường được thực hiện, chứ không nên trước, đặng tránh tình trạng
làm mất giá trị của giáo pháp do ‘gạ cúng’ hoặc hiểu nhầm ‘gạ cúng.’ Tất cả
những nguyên tắc nói trên đều nhằm đảm bảo cho cả hai bên cho và nhận thận
trọng và tương kính nhau nhiều hơn. Vì lẽ đó, ngay cả thời Đức Phật còn tại thế,
người ta tìm mọi cách để thể hiện điều này. Theo các chuyện kể về nguyên nhân
chế định luật cho hàng xuất gia, các câu chuyện này mô tả những hành vi sai
phạm, để từ đó, Đức Phật thiết lập giới luật cho Tăng Ni như được thường kể, có những trường hợp hàng
xuất gia bị vướng buộc trong việc bố thí Pháp và hàng cư sĩ thì giựt dây để
được những gì họ cần ở hàng xuất gia: vui vẻ lấy lòng để nhận được sự ủng hộ cá
nhân. Lòng kiên nhẫn của Đức Phật trong việc thiết lập điều lệ để cắt đứt các
sợi dây trói buộc này chứng tỏ Ngài xác quyết nguyên tắc của bố thí Pháp là bất
vụ lợi, chứ đây không phải là ý tưởng không có căn cứ. Ngài muốn nguyên tắc này
phải thực sự tác động đến cách hành hoạt của mọi người.
Ngài không giải
thích cặn kẽ tại sao việc giảng dạy Giáo pháp nên luôn được xem là một pháp thí,
một quà tặng, nhưng ngài có nói rằng nguyên tắc đạo đức suy yếu theo thời gian sẽ
làm cho giáo Pháp suy yếu. Trong văn hóa cho nhận, tính tương quan này tồn tại
trong suốt chiều dài lịch sử Phật giáo.
Có một ví dụ rất
điển hình được ghi lại trong bộ Apadanas (Tập
Kinh Phước Thí).[*] Các học giả cho rằng tập kinh
này được thêm vào văn học Phật giáo sau thời Hoàng đế Asoka. Bộ Apadanas bàn về phước báu bố thí và cho
thấy rằng các tăng sĩ soạn thuật bộ Apadanas
này rất ân cần thọ nhận sự cúng dường hậu hĩ. Các tăng sĩ này tin rằng cúng
dường một vật dù nhỏ cũng đưa đến quả vị giác ngộ ở đời sau, và nhờ phước cúng
dường mà từ đời này cho đến đời sau, người cúng dường luôn được hưởng phước an
vui và có thanh thế. Tuy nhiên, để đạt quả vị đặc biệt, cần có sự bố thí cúng
dường đặc biệt. Việc cúng dường đặc biệt thường biểu thị cho mong muốn đạt được
quả vị tương ứng, ví dụ cúng dường đèn, sẽ được trí tuệ sáng suốt; tuy nhiên, phẩm
thí cúng dường được ưa thích ở đây chỉ trị giá tương đương với chi phí sắm sửa
các bữa ăn thịnh soạn cho tất cả tăng sĩ ở tu viện, hoặc ít ra là cho các tăng
sĩ tham gia giảng dạy, trong vòng một tuần.
Rõ ràng các tăng
sĩ soạn tập Apadanas đã buông lung
trong lòng tham cầu của mình và ra sức thuyết giảng những gì mà thính chúng ưa
nghe. Sự thực là tập kinh này được ghi chép cho hậu thế cho thấy rằng người
nghe rất hài lòng với nội dung của kinh. Và như vậy, người dạy và người học
thông đồng với nhau dệt nên một văn hóa cho nhận chạy theo lòng tham cầu của
mình. Làm như vậy, họ đã làm tổn hại đến Giáo pháp. Nếu bố thí cúng dường thôi
cũng có thể đảm bảo quả vị Giác ngộ, thì con đường thánh gồm tám yếu tố đã bị
thay thế bằng con đường bố thí duy nhất đó mất rồi! Nếu con đường dẫn đến Giác
ngộ luôn luôn vừa lòng thuận thế kiểu ấy, thì ý nghĩa tinh tấn chân chính ắt đã
không còn. Tuy nhiên, một khi những tư tưởng này đã được đưa vào trong truyền
thống Phật giáo, chúng được gán cho là có gốc gác và đã ảnh hưởng đến sinh hoạt
Phật giáo kể từ đó. Khắp các vùng Phật giáo ở châu Á, người ta có xu hướng cúng
dường nhắm đến mong cầu phước báu trong tương lai; và danh sách các phẩm thí
được liệt kê trong Apadanas trông
giống như một bản sớ với tên các vật cúng được đặt trên bàn thờ ở một số vùng
theo Phật giáo châu Á tận đến ngày nay.
Những gì đã làm
cho văn hóa cho nhận biến dạng đi cũng đã làm ảnh hưởng không tốt đến toàn bộ
sinh hoạt Phật giáo trong nhiều thế kỷ qua. Vì vậy, nếu chúng ta thực sự quan
tâm đến việc giới thiệu văn hóa cho nhận vào xã hội phương tây, chúng ta cần
phải cẩn trọng để đảm bảo rằng nỗ lực của chúng ta là tuân giữ được các nguyên
tắc của văn hóa cho nhận đúng theo truyền thống Phật giáo. Nghĩa là chúng ta
không cần phải sử dụng các phương thức gây quỹ hiện đại để khuyến khích các tu
sinh hay Phật tử nói chung chia sẻ, bố thí, ủng hộ, cúng dường. Điều này cũng
có nghĩa là chúng ta cần phải xem lại nội dung của các pháp thoại về bố thí
cúng dường, vì có rất nhiều lý do khiến cho các pháp thoại này không đúng pháp.
Kêu gọi tu sinh ủng hộ thầy dạy không thể đem lại hoan hỷ như Pháp trước khi
ủng hộ, mà còn trông giống lời ngỏ xin tiền tặng sau khi phục vụ bữa ăn. Nỗ lực
bật khóa lòng người tu sinh cốt để họ mở túi tiền ra chứng tỏ sự thiếu niềm tin
vào suy nghĩ của người ủng hộ và như thế để lại một ấn tượng rất xấu. Và tất cả
nỗ lực kêu gọi bố thí cúng dường nhằm ủng hộ thầy dạy không thể tránh được trường
hợp ‘trả công’ phục vụ cho các thầy. Dù các thầy có ý thức về tình trạng ấy hay
không, xu hướng này ngầm thúc đẩy họ phải nói với người nghe những gì họ nghĩ
là người nghe muốn nghe. Điều này chỉ làm tổn thương Giáo pháp mà thôi.
Cần có một giải
pháp lý tưởng để ủng hộ người học và hành Pháp nghiêm túc bất kể họ có tham gia
giảng dạy hay không. Bằng cách đó, hoạt động giảng dạy sẽ tự nhiên trở thành
tặng phẩm đúng nghĩa. Đồng thời, ngưng các pháp thoại về cho nhận, chia sẻ, ủng
hộ, bố thí, cúng dường vào cuối khóa tu, và ngưng đề cập đến truyền thống bố
thí trong Phật giáo như là một hình thức gây quỹ là một bước cần thiết để hướng
đến văn hóa cho nhận đúng nghĩa, đặng kịp thời phục hoàn lại tinh túy của lời Pháp.
Trong các khóa
tu, đề tài cho nhận, chia sẻ, ủng hộ, bố thí, cúng dường nên được bàn đến bình
thường như bao đề tài pháp thoại khác, nhằm đưa ra phương pháp ứng dụng Giáo pháp
vào cuộc sống hằng ngày một cách hiệu quả nhất. Cuối các khóa tu, hộp ‘phước
sương’ có thể đưa ra với ghi chú rằng thầy hướng dẫn khóa tu phục vụ tình
nguyện không lương. Chỉ vậy thôi. Không kêu gọi. Không gợi ý. Tu sinh nhạy bén
sẽ đủ khả năng tính được 2 + 2 = 4, và họ sẽ hoan hỷ, phấn khích, hài lòng rằng
họ được tin tưởng và tự giải bài toán của mình.