Nguồn: Tạp chí Văn Hoá Phật Giáo 12/2007
Tác giả: Huỳnh Ngọc Chiến
Tôi quay lại Buôn Ma Thuột trong chuyến công tác hằng năm. Nhưng lần này tôi về với cái thành phố cao nguyên trầm lặng đó - thành phố mang tướng ”nội mi” của người phụ nữ đứng tuổi - với tâm trạng trĩu nặng muộn phiền.
Cuộc sống với biết bao nhiêu tao ngộ bất ngờ, vui buồn bất chợt, với bao ngộ nhận oái ăm cứ dồn dập vây bủa mãi con người. Chỉ một chút lơ đễnh, chỉ một chút thôi, là lắm khi dòng đời lại cuốn ta vào những vũng xoáy không ngờ. Ai biện bạch được cho mũi kéo của Thị Kính đưa vào cổ chồng là Thiện Sĩ đang say giấc nồng? Thiện tâm là thế, nhưng dưới mắt mọi người lại rành rành cái tội sát phu! Những muộn phiền trong đời đôi khi lại phát xuất từ những chuyện tưởng chừng như vặt vãnh không đâu. Những “thằng bán tơ” của cụ Nguyễn Du, những “Ngụy quân tử kiếm” Nhạc Bất Quần thời nào cũng đầy dẫy trong đời, từ cõi giang hồ cho đến làng bút mực. Chúng sẵn sàng giăng muôn ngàn cạm bẫy chết người, trên khắp cõi bể dâu, dưới những lớp vỏ bọc dịu dàng. Những kẻ lãng tử phiêu bồng sống hồn nhiên vô tâm dễ dàng sa bẫy đã đành, mà cả đến những kẻ cơ cảnh e rằng cũng phải lắm phen khốn đốn!
Hạnh phúc bình yên của con người có lẽ vẫn mãi mãi chỉ là một giấc mơ hư ảo, thấp thoáng ở cuối chân trời xa lăng lắc, như những nét chấm phá rất đỗi mơ hồ, trên một bức tranh tĩnh vật. Nó như hoa nắng trên sông, nhìn thấy đó nhưng không làm sao vói bắt được. Và để con người sẽ cứ mãi đi tìm. Suốt mãi một đời!
Trên chuyến xe từ Sài Gòn đi ngược lên vùng cao nguyên, tôi cứ nghĩ rằng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, cứ nghĩ rằng lần này Tây Nguyên, đối với tôi, sẽ không còn nét quyến rũ của người phụ nữ trong lần đầu gặp gỡ. Cảnh do tâm mà sinh, một khi tâm đã bị khuấy động bởi những con sóng phiền não thì cảnh làm sao có thể tĩnh lặng bình yên? Vậy mà khi nhìn những đồi cây lặng lẽ trong bóng hoàng hôn, tiếp nối điệp trùng dọc theo quốc lộ, tự nhiên tôi thấy tâm hồn yên tĩnh trở lại. Những phiền muộn trong lòng như lắng dịu đi phần nào trước cái “Đại khối vô ngôn” trầm lặng mà bàng bạc sức sống kia.
J.J. Rousseau nói rằng cảnh vật thiên nhiên an ủi được tất cả mọi thứ cho con người. Le spectacle de la nature console de tout. Điều đó rất đúng. Thiên nhiên luôn bao dung như lòng Mẹ, như biển cả dung nạp bao dòng sông nhơ bẩn mà không hề bị nhơ bẩn theo. Tây Nguyên vẫn ngàn đời lặng lẽ với màu xanh của cây rừng, vẫn thiên thu nộ cuồng với màu bạc của thác nước. Nhưng điều kỳ diệu là tiếng nói của thiên nhiên, dù cuồng nộ, vẫn khác hẳn với tiếng huyên náo của cuộc đời. Trong tiếng thét gầm của thác nước, trong tiếng gào hú của gió ngàn, hay trong tiếng rì rào của cây lá, ta vẫn dễ dàng cảm nhận được sự bàng bạc của một cõi Tĩnh Lặng mênh mông. Màu xanh của cây rừng đem lại cho ta sự bình yên thanh thản, và màu nước bạc của thác đổ giúp ta cảm nhận được sức sống dạt dào. Để nguôi đi muộn phiền và đừng tuyệt vọng. Giữa ngàn cây trầm lặng, giữa con thác ào ạt, con người cảm thấy bình yên, vì thiên nhiên không lọc lừa thủ đoạn, không tráo trở thô bỉ như con người.
Buôn Ma Thuột có lẽ là một nơi hiếm hoi trên đất nước, (hay có lẽ trên cả trái đất?) hầu như có đủ hình tượng của cả bốn mùa trong chỉ một ngày. Buổi sáng nơi đây có cái dịu dàng man mác của mùa xuân, buổi trưa có cái nắng nóng nhè nhẹ của mùa hè, buổi chiều có cái se lạnh êm ả của mùa thu, buổi tối lại có cái giá lạnh se sắt của mùa đông. Từng ngày, bốn mùa cứ lặng lẽ chuyển dịch trên vùng cao tĩnh lặng. Xuân Hạ Thu Đông! Cả chu kỳ vận động của tạo hóa như được thu gọn lại trong chu kỳ mọc và lặn của vầng dương, trên thành phố cao nguyên.
Trong cơn phiền muộn, tôi muốn được sống yên lặng một mình để quan chiêm sự vận động của bốn mùa. Trải qua gần hai tuần không có InterNet, không có báo chí, không có những buổi chiều ngồi nơi quán cóc trên vỉa hè Sài Gòn nhâm nhi ly bia tán ngẫu cùng bạn bè, thiếu những tiếng ồn ào của xe cộ đường phố, tôi có cảm tưởng mình như đã bị cắt đứt ra khỏi cái thế giới “văn minh” quen thuộc. Thế nhưng sự thay đổi này, gẫm ra lại hóa hay. Thoạt đầu, ta có cảm giác hụt hẫng, trống vắng, vì tưởng như bị tước đoạt mất tất cả cái thế giới quen thuộc thường ngày. Nhưng sau đó hồn ta sẽ tràn ngập một sự xao xuyến dịu dàng, khi chìm vào cõi tĩnh lặng mênh mông. Cảm giác xao xuyến đó có lẽ giống như cái Anxiety của Heidegger, làm chúng ta bâng khuâng không sao thốt được nên lời.Anxiety robs us of speech! Heidegger cho rằng đó là kinh nghiệm để con người cảm nhận được sự hiện diện của Hư Không (Nothing), khi cảnh vật quanh ta như tan biến đi, chỉ còn lại cõi Hư Không bàng bạc vây quanh. Ngày xưa, khi đọc câu đó trong bài “What Is Metaphysics?” (Siêu hình học là gì?) của Heidegger, tôi chỉ mơ hồ nắm bắt được điều đó trên khái niệm, nên không cảm nhận được gì nhiều. Nhưng chính lúc này, giữa sự tĩnh lặng êm đềm của cao nguyên, và trong cơn xao xuyến của tâm thức, tôi lại nghe câu văn kia vọng lên một âm hưởng khác.
Anxiety robs us of speech. Because beings as a whole slip away, so that just the nothing crowds round, in the face of anxiety all utterance of the “is” falls silent.... The nothing reveals itself in anxiety. (Sự xao xuyến khiến chúng ta bâng khuâng không sao thốt được nên lời. Bởi vì toàn bộ khối hiện thể trôi lướt đi, chỉ còn có Hư Không bàng bạc vây quanh. Đối diện với sự xao xuyến đó thì mọi phát biểu về “hiện thể” đều rơi vào im lặng…. Hư Không tự thân hiển lộ trong xao xuyến).
Tôi là người ngoại đạo về triết học nên không quan tâm lắm đến những khái niệm siêu hình học đầy rối rắm, nhưng chính sự xao xuyến kiagiúp chúng ta có dịp lắng nghe rõ hơn tiếng nói của Tạo Vật, của Cõi Đời đang thì thầm to nhỏ với tâm hồn mình.
Chúng ta cứ bị đóng khung trong cái tháp ngà của thói quen, của tập quán, cứ tự tìm cách thích ứng với những sự việc đơn điệu lặp lại từng ngày, để tìm sự bình yên, cứ quen dần với lối sống “Đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến. Đến ái ân cũng hết cả đợi chờ ” (Huy Cận). Trong tận thâm tâm, chúng ta sợ mọi sự đổi thay trong nếp sống. Như một con sâu co ro trong vỏ bọc. Để tìm sự bình an. Chúng ta sợ hãi cái xa lạ nên tự để mình dần dần xơ cứng và chết khô trong tập quán tẻ nhạt hằng ngày mà không hay. Có lẽ vì thế mà tất cả chúng ta đều sợ hãi và muốn lẫn tránh sự tĩnh lặng, vì sự tĩnh lặng gợi đến cái chết, mà cái chết cũng là một cõi xa lạ. Một cõi xa lạ vô cùng nguy hiểm, vì khi đã đặt chân đến đó là không có đường về!
Lần trước, những buổi chiều êm ả nơi quán cà-phê thung lũng đã đem lại cho tôi cảm hứng để nghiền ngẫm và dịch cuốn “U mộng ảnh” của Trương Trào, thì lần này sự tĩnh lặng của thành phố cao nguyên lại giúp tôi tìm được sự bình yên trong tâm tưởng. Hồn tôi, trong những ngày qua, như mặt hồ bị một viên đá từ một bàn tay bẩn ném xuống gây nên những đợt sóng xao động, song giờ đây nó đã lấy lại sự bình yên cùng cái se lạnh giữa tĩnh lặng cao nguyên.
Buổi sáng, thức giấc cùng với cái se lạnh đầu ngày, giữa không gian như còn đượm sương khuya, ngồi một mình nơi quán cóc, nhấm nháp ly cà phê Buôn Mê đen nóng còn bốc khói, cũng là một cái thú bình dị, nhưng không dễ gì tìm được ở thành phố miền xuôi. Buổi trưa, tranh thủ một tí thời gian rỗi, ngồi nơi quán cà phê góc phố, nhìn các cô bé nữ sinh mặc áo dài trắng tan học về, tay che dù màu tím, tôi chợt bâng khuâng nhớ đến bài hát “Con đường tình ta đi” của Phạm Duy. Hình ảnh của kỷ niệm một thời, theo giai điệu ngọt ngào ngày nào, trôi về bồng bềnh trong ký ức. “Con đường nào ta đi …chiếc dù che màu tím... hỡi người tình học trò.... bóng người còn in dấu trên đường mờ … con đường mộng hoa xưa, vẫn từng đôi từng lứa …”.
Buổi tối, đi lang thang qua các con phố vắng, tôi chợt thấy lòng như nhẹ đi, vơi bớt những muộn phiền. “Tôi đâu cầu Phật, tôi chẳng cầu Thiền, tim tôi cũng sạch lụy phiền nhân gian. Ô hay! Giữa cõi mênh mang có tên phiêu lãng ôm đàn ngược xuôi, đem tài hoa đổi lấy nụ cười, Yêu em ta cũng một thời cỏ hoa, Yêu người lòng bỗng bao la …... ”. Giai điệu trong ca khúc “Hoa tâm khúc” tôi viết ngày xưa như bay bàng bạc trong không gian, theo tiếng Guitare, trong trí nhớ. Tôi chợt nhớ đến một thời cỏ hoa và thấy lòng bao la lắm giữa cõi tĩnh lặng cao nguyên.
Dường như chỉ ở những chốn phồn hoa đô hội với cuộc sống xô bồ, con người mới có thể lãng quên tất cả để hối hả đua chen theo hai chữ Lợi và Danh, mà không hề chùn tay trước bất kỳ một thủ đoạn nào. Ở nơi đó, cái Tâm của con người cứ mãi bị tiếng huyên náo ngựa xe vùi lấp, rồi mất dần đi cái tính bản nhiên của buổi ban sơ. Con người nơi phố thị phải lo tìm mọi cách để tồn tại, mà không có dịp ngồi tĩnh lặng giữa thiên nhiên để lắng nghe tiếng nói của Hư Không và cảm nhận được rằng bản chất của Lợi và Danh cũng đều rất phù du. Phù du như chính cuộc sống!
Một cơn giông bão, một trận lũ quét, một trận hỏa tai, một cơn biến động thị trường là có bao công trình sụp đổ, có thể còn kéo theo biết bao mạng người. Đó là sự phù du của Lợi! Một chút lơ đễnh là có thể khiến danh dự vô tình bị tổn thương, với những “nỗi oan Thị Kính”. Đó là sự phù ảo của Danh! Chỉ ở giữa cõi tĩnh lặng, con người mới hiểu được rằng những nỗi đau mà chúng ta gánh chịu về Lợi, về Danh còn quá nhỏ nhoi so với những nỗi đau nhân thế. Và vẫn còn có một cái gì đó trường cữu, bên kia những hư ảo của trần gian. Chân nhân là những bậc giữ cõi lòng luôn tĩnh lặng giữa muôn ngàn biến động, điều mà chúng ta may mắn lắm mới thực hiện được trong một vài phút giây, khi có cơ duyên.
Từng đêm, đứng một mình trên balcon của một ngôi nhà trọ, nhìn lên bầu trời mờ mịt không một ánh sao của đêm tháng mười, tôi nghe lòng bình yên thanh thản lạ lùng. Bên kia cái thế giới đang hiện hữu vây quanh, bên kia “toàn bộ khối hiện thể đang trôi lướt đi”, Beings as a whole slip away, là cõi Tĩnh Lặng mênh mông. Phải chăng đó là “Hư Không tự thân hiển lộ trong xao xuyến”? The nothing reveals itself in anxiety. Đó có lẽ là những giây phút mà con người mở lòng mình để “nạp năng lượng” từ trời đất. Tôi tin rằng trong trời đất vẫn luôn có những luồng linh khí bàng bạc, và con người khi có cơ duyên đều có thể cảm nhận được. Từ đây, khi về miền xuôi với muôn ngàn biến động, trong lòng tôi sẽ còn mãi những âm vang mênh mông từ cõi tĩnh lặng cao nguyên.
Buôn Ma Thuột 10.2007
Huỳnh Ngọc Chiến