Chữ nhẫn từ
ngàn xưa, trong văn hóa phương Đông, vẫn luôn được ca ngợi là phương châm thần
hiệu trong việc đối nhân xử thế, là cánh cửa dẫn đến mọi đức hạnh. Dân gian ta
thường nói “Một câu nhịn là chín câu lành” hay “Chữ nhẫn là chữ tương
vàng, ai mà nhẫn được thì càng sống lâu”. Người Trung Quốc có rất
nhiều câu thơ ca ngợi diệu dụng của chữ nhẫn.
“Nhẫn nhất thời phong
bình lãng tĩnh
Thoái nhất bộ hải
khoát thiên không”
(Nhịn được cái
nóng nhất thời thì gió lặng sóng yên;
Lùi lại một bước
nhường người thì biển trời bát ngát)
hay
“Nhẫn đắc nhất thời
chi khí
Miễn đắc bách nhật chi
ưu”
(Nhịn được cơn giận một
lúc,
Tránh được lo lắng trăm
ngày).
Có một giai thoại vào
đời Đường, gia đình ông Trương Công Nghệ sống cả 9 thế hệ trong cùng một nhà (cửu
đại đồng đường). Vua bèn đến nhà ông ta hỏi có bí quyết gì, Trương Công
Nghệ liền viết liền một trăm chữ “Nhẫn” dâng lên, vua đọc liền hiểu.
Vì sao chữ nhẫn lại
có giá trị đến vậy?
Trong đời sống thường
ngày, chữ nhẫn thường được hiểu là “nhịn” và “nhường”, chịu
đựng nghịch cảnh, chấp nhận phần thua thiệt, mất mát về mình. Trong đời sống
tôn giáo, chữ nhẫn thường được hiểu là sự tự chủ về tinh thần, đối với những sự
sỉ nhục mà trong lòng không hề giận cũng không khởi tâm niệm trả thù. Chính vì
vậy mà trong nhiều trường hợp, người ta thường hay lầm lẫn nó với sự nhu nhược,
cam chịu một cách thụ động, hoặc hiểu nó là sự tự chủ với cảm giác cố gắng đè
nén, kiềm chế để tu tập. Nếu chỉ có thế thì chữ nhẫn không thể có vị trí cực
cao trong đời sống tinh thần của người phương Đông được. Cũng như bao đức tính
khác, nếu không được hiểu đúng thì chữ nhẫn lại trở thành cái vỏ bọc hoa mỹ cho
sự vô minh, cho lòng tham, hoặc là thái độ tự dối lừa mình.
Có khi chúng ta nhẫn vì
tình thế, có khi chúng ta nhẫn vì lòng có sở cầu. Nhẫn vì tình thế là nhu
nhược, nhẫn vì sở sầu là tham lam.
Tô Đông Pha đời Tống bàn
về Trương Tử Phòng – một nhân vật tài trí kiệt xuất thời Tiền Hán ở Trung Quốc
– nói rằng : “Kẻ được gọi là hào kiệt thời xưa, tất phải có khí độ hơn
người. Nhân tình có chỗ không thể nhịn được, nên kẻ thất phu gặp nhục thì tuốt
gươm đứng dậy, xông tới mà đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Bậc đại dũng trong
thiên hạ, gặp những biến cố bất ngờ mà không kinh hoảng, vô cớ bị lăng nhục
cũng không nổi giận.“. (Lưu hầu luận)
Đó là cái nhẫn của kẻ ôm
hoài bão lớn hoặc trong lòng có sở cầu mà chúng ta thấy rất nhiều trong lịch
sử. Hàn Tín biết mình thân hoài tuyệt học, không thể mang lụy vô cớ vì một kẻ
hạ lưu, nên chấp nhận cái nhục lòn trôn giữa chợ để sau này đem tài năng thi
thố với đời. Trương Tử Phòng chấp nhận để một ông lão xa lạ mắng chưởi, sai bảo
như một kẻ tôi đòi để rồi được truyền thụ binh pháp. Câu Tiễn nhẫn nhục nằm gai
nếm mật để mong đến ngày tiêu diệt nước Ngô. Những cái nhẫn đó, dù được ca ngợi
như những tấm gương đáng để học hỏi, đều là những cái nhẫn hoàn toàn vì tư lợi,
vì chính bản thân mình.
Có nhiều khi ta buộc
phải chấp nhận một cách nhu nhược những tình huống bất khả vãn hồi, nhưng ta
lại dùng đến vũ khí “thắng lợi tinh thần” theo kiểu nhân vật A.Q của Lỗ
Tấn để an ủi mình, để tự lừa mình bằng những hoang tưởng. A.Q là một kẻ bất tài
vô tướng, sống bằng nghề làm thuê làm mướn trong làng, nhưng lại luôn luôn tự
xem mình giỏi giang hơn thiên hạ. Bị người ta đánh đập, chửi mắng thì dùng thái
độ khinh bỉ đối phương để đỡ đau, và tự nhủ “Nó đánh mình cũng như đánh
bố nó!”. Đó là sự bạc nhược đớn hèn, không thể gọi là nhẫn. Chúng ta thường
tự lừa mình bằng những suy nghĩ cao đạo kiểu đó, và cho đó là nhẫn!
Trong kinh Phật, chữ nhẫn lại
mang thêm một ý nghĩa thâm áo khác. Nó hoàn toàn khác với chữ nhẫn của những
người mang tham vọng hay lòng có sở cầu. Ta thường quen với khái niệm chữ nhẫn
trong Nhẫn nhục Ba la mật, một trong Lục độ, có nghĩa là cam chịu
mọi nghịch cảnh để tu tập với thân nhẫn, khẩu nhẫn và ý nhẫn. Thế nhưng trong
chương Thập nhẫn của kinh Hoa Nghiêm, đức Phật lại nêu ra mười
loại nhẫn xem như là cảnh giới chứng đắc thâm diệu của đại bồ Tát; đó là : âm
thanh nhẫn, thuận nhẫn, vô sanh pháp nhẫn, như huyễn nhẫn, như diệm nhẫn, như
mộng nhẫn, như hưởng nhẫn, như ảnh nhẫn, như hóa nhẫn, như không nhẫn. Một
điều rõ ràng là ta không thể hiểu chữ nhẫn trong Nhẫn
nhục Ba la mật giống như chữ nhẫntrong thập nhẫn được.
Thông thường chúng ta
hiểu nhẫn trong kinh Phật theo nghĩa “kiên nhẫn, nhẫn nhục, nhẫn nại ”.
Tác giả Giải Không cũng hiểu chữ nhẫn theo nghĩa đó, nghĩa là cam chịu bao khốn
cảnh để cứu độ chúng sinh, nên khi chú giải câu kinh văn đầu tiên của phẩm Thập
nhẫn : “Phật tử! Bồ Tát ma ha tát hữu thập chủng nhẫn (Này
các Phật tử! các đại bồ Tát có mười loại nhẫn), tác giả này liền bình chú ngay
: “vị điều chúng sinh, hà nhẫn bất năng?”. (Vì muốn điều phục chúng
sinh, có nhẫn nào mà không thực hiện được?) (1). Song có nên hiểu nhẫn như
thế chăng?
Ta thử trích một đoạn
kinh văn trong phẩm Thập nhẫn nói về vô sinh pháp nhẫn :
“Chư Phật-tử! Thế nào là
đại Bồ-Tát vô-sanh-pháp nhẫn?
Ðại Bồ-Tát nầy chẳng
thấy có chút pháp nào sanh, cũng chẳng thấy có chút pháp nào diệt. Tại sao vậy?
Vì nếu đã vô-sanh thời vô-diệt. Nếu đã vô-diệt thì vô-tận. Nếu vô-tận thời
ly-cấu. Nếu ly-cấu thời vô-sai-biệt. Nếu vô-sai-biệt thời vô-xứ-sở. Nếu
vô-xứ-sở thời tịch-tịnh. Nếu tịch-tịnh thời ly-dục. Nếu ly-dục thời vô-tác. Nếu
vô-tác thời vô-nguyện. Nếu vô-nguyện thời vô trụ. Nếu vô-trụ thời vô-khứ
vô-lai. Ðây gọi là thứ ba, vô-sanh-pháp-nhẫn của đại Bồ-Tát.” (2).
Pháp nhẫn hay vô sinh pháp nhẫn là thuật ngữ được sử
dụng rất nhiều trong kinh điển Đại thừa, và đã khiến các học giả phương Tây gặp
không ít lúng túng khi dịch thuật ngữ này. Trong đoạn kinh văn trích ở trên thì
ý nghĩa chữ nhẫn không hề có liên quan gì với nhẫn nhục mà ta
thường hiểu. Theo đại sư Suzuki, sau đây là một vài cách dịch “vô sinh pháp
nhẫn” của các học giả phương Tây :
v M.E Burnouf, trong bản dịch kinh Pháp Hoa —
Saddharmapundarīka — ra tiếng Pháp đã dịch là : "Une patience
miraculeuse dans la loi" (Sự kiên nhẫn kỳ diệu trong chánh pháp).
v Max Muller trong bản dịch kinh Vô Lượng Thọ
-Sukkhāvatīvyūya — (S.B.E XLIX.), dịch là "Resignation to consequences
which have not yet arisen" (Sự nhẫn thuận theo các quả chưa sinh
khởi).
v Cecil Bendall và W.H.D Rouse trong bản dịch
tiếng Anh cuốn "Bồ Tát Đại thừa học tập luận"
-Śikshasamuccaya- của Śantideva (Tịch Thiên) dịch là :" Resignation
to the idea of not being reborn" (Sự nhẫn thụ trước ý tưởng không
tái sinh)
v H. Kern trong bản dịch kinh Pháp Hoa (S.B.E
XXI.) dịch là "Acquiessence to the eternal law" (Sự thuận tòng
pháp tắc thường hằng) (3).
Ngoài ra, ta thử tham
khảo một vài cách dịch khác như :
v Tỳ khưu Dharma, trong bản dịch tiếng Anh cuốn Bồ
đề tư lương luận — Bodhisaṃbhāraka Sāstra Commentary của Long
Thọ Bồ Tát — đã dịch là “unproduced dharmas patience”. Cách dịch này bám
sát từng chữ trong tiếng Phạn nên rất tối nghĩa, unproduced : vô sinh,
dharmas : pháp, patience : nhẫn.
v Shohei Ichimura, trong bài Buddha's Love and Human Love, (Chung-Hwa
Buddhist Journal, No. 13, 2000) dịch là : “the ultimate insight that nothing
arises or perishes “: kiến giải tối hậu về sự bất sinh bất diệt của
vạn pháp.
v Mục thuật ngữ Phật học tại Website http://www.buddhistdoor.com/glossary dịch
là “Clear cognition of the unproduced nature of all existences; to realize
that all things are beyond birth and decay” : minh đạt bản chất bất
sinh của vạn hữu; liễu giác được rằng vạn hữu siêu quá sinh diệt.
v Tự điển Phật học (Dictionnaire des termes Bouddhiques)
dịch là : “Etape où l'on perçoit que rien ne naît ni ne meurt dans le monde
des phénomènes (compréhension de la non-production et de la non-destruction du
monde phénoménal)” : giai đoạn nhận thức được rằng không có gì sinh hay
diệt trong thế giới hiện tượng (liễu chứng được tính bất sinh bất diệt của vạn
hữu).
Chúng ta dễ thấy trong
hầu hết các cách dịch trên, ý nghĩa chữ nhẫn trong các loại nhẫn được
liệt kê trong phẩm Thập nhẫn dường như chẳng có liên quan gì
đến các khái niệm patience hayresignation theo
nghĩa “kiên nhẫn, nhẫn nại, nhẫn nhục” của phương Tây cả. Các cách
dịch "Acquiessence to the eternal law", “compréhension
de la non-production et de la non-destruction du monde phénoménal “,
hoặc “Clear cognition of the unproduced nature of all existences; to realize
that all things are beyond birth and decay” v.v…, hay đúng hơn là
những lời chú thích, biểu đạt được khá sát nội dung của chữ nhẫn theo tinh thần
kinh văn.
Tôi không biết tiếng
Phạn, nhưng biết rằng chữ nhẫn trong nhẫn nhục hay vô
sinh pháp nhẫn chỉ là một, và đều được dịch từ chữ Kṣānti trong Phạn ngữ.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu chữ nhẫn theo một nghĩa
khác rộng hơn. Chỉ khi nào hiểu được chữ nhẫn trong thập
nhẫn thì ta mới có thể hiểu được nội hàm sâu xa trong Nhẫn
nhục ba la mật.
Tinh hoa của chữ nhẫn của
đạo Phật nằm trong chữ TUỆ để hóa giải tam độc : tham – sân – si.
Trong lịch sử đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân loại, đỉnh cao của chữ nhẫn của đạo Phật kết tinh
trong tinh thần đấu tranh bất bạo động của thánh Gandhi. Đây là cuộc đấu tranh
mang tính nhân bản vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Có thể dùng bạo lực để
đối kháng nhưng không đối kháng, vì muốn dùng tình thương để cảm hóa cái ác. Đó
là bi trong nhẫn. Thản nhiên cam chịu bao nghịch cảnh, đó là dũng trong nhẫn.
Hiểu rằng nếu chỉ có đấu tranh theo tinh thần bất bạo động, lấy “tình thương
xóa bỏ hận thù” của đạo Phật mới có thể thực sự giải phóng được tâm thức nhân
gian ra khỏi vòng luẩn quẩn của vô minh và thù hận; đó là tuệ trong nhẫn.
Khi còn bé, chúng ta có
thể đánh nhau bươu đầu sứt trán để giành cho được một con dế. Đến lúc trưởng
thành, khi hồi tưởng lại, ta sẽ xem chuyện tranh chấp những con dế ngày xưa là
vớ vẩn trẻ con. Thế nhưng trong cuộc sống, ta vẫn cứ tiếp tục tranh chấp để
giành giật, không chịu nhường bước trước bất kỳ ai, chỉ khác một điều là chúng
ta thay con dế của tuổi thơ bằng những “con dế” khác mang tên : tình
yêu, sự nghiệp, danh vọng, tiền tài, địa vị … Đến lúc đứng
tuổi, ta lại thấy chuyện tranh chấp thời trai trẻ không đáng để bận tâm nữa.
Nếu như tại thời điểm tranh chấp của thời thơ ấu mà chúng ta có được cái nhìn
của người trưởng thành, hay tại thời điểm tranh chấp của thời trưởng thành mà
chúng ta có được cái nhìn của bậc lão niên thông tuệ, thì hẳn ngay lúc tranh chấp
đó ta sẽ thấy mọi chuyện đều vụn vặt buồn cười. Và ta dễ dàng bỏ qua với nụ
cười khoan dung hỷ xả, và vui vẻ nhường người. Vậy chữ nhẫn của Phật giáo là
phương châm giúp ta tránh được sự tranh chấp, không phải chỉ vì muốn nhường
nhịn theo kiểu “dĩ hòa vi quý” hay nhẫn nhục để tu hành, mà vì ta có
được cái nhìn sâu thẳm vào bản chất “như huyễn, như diệm, như mộng, như
hưởng, như ảnh, như hóa, như không” của vấn đề mà ta đang đối
mặt. Cái nhẫn được dùng để đối trị với si theo cách đó
mới chính là nhẫn theo tinh thần Phật giáo. Nó là kết quả của trí tuệ. Vì kẻ
trí quán sát được vấn đề y như thực, một điều mà ta phải mất đến mười năm hoặc
vài mươi năm sau, khi hồi tưởng lại mới có thể nhận ra, nếu may mắn gặp được cơ
duyên.
Thông thường, nhẫn dùng
để đối trị với sân trong quá trình tu học. Nóng giận là một cảm xúc rất dễ bộc
phát, nhưng lại rất khó kiềm chế. Nhan Hồi – một cao đệ yểu mệnh của đức Khổng
Tử – được hậu nho ca ngợi, tôn xưng là á thánh cũng nhờ vào ba chữ “Bất
thiên nộ”, có nghĩa là “không giận lây” theo kiểu “giận cá chém
thớt”. Khi ta dùng nhẫn để kiềm chế được sân, thì đó là sự dũng mãnh tự
thắng được mình. Nó đòi hỏi đến công phu hàm dưỡng cực kỳ thâm sâu. Nhẫn được
như vậy là dũng, nhưng vẫn còn cảm giác tự kiếm chế. Nhẫn mà còn có cảm giác tự
kiềm chế, thì chưa phải là nhẫn theo tinh thần Phật giáo.
Mỗi khi nổi giận ta luôn
tìm cách trút giận vào bất kỳ đối tượng nào, ta muốn đập phá cho hả hê, cho “đã
nư”, thì thực chất đó là tham, vì muốn thỏa mãn chính mình.
Trong đời sống thường ngày, ta hay nổi giận khi cái-Tôi của ta bị xúc phạm.
Thực chất, cái sân đó cũng là biến tướng của tham, do vì mong muốn được người
ta kính trọng mà không được như ý nên nổi giận. Tự ngã lớn dần theo tính sân
một cách vô hình, và được củng cố bởi nhu cầu muốn được thỏa mãn tính tham
trong cơn giận. Nếu chúng ta sống không có ngã tướng thì lấy đâu ra sân để mà
đối trị bằng nhẫn? Vậy nhẫn đó chính là tuệ.
Nhà thơ Nguyễn Bỉnh
Khiêm bảo “Chưa dễ ai là Bụt Thích Ca, Mọi điều nhân nghĩa nhẫn thì qua,
Lòng vô sự : trăng in nước, Của thảng lai : gió thổi hoa”. Chữ nhẫn
đây không còn là sự kiềm chế hay tự chủ nữa, mà là sự an nhiên của một người vô
sự, đủ thông tuệ để nhìn ra được bản chất vô thường, “như huyễn, như mộng” của
mọi điều ân oán thị phi.
Trong phẩm Thập
nhẫn, chữ nhẫn hoàn toàn mang nội hàm của trí tuệ, có nghĩa là dùng trí tuệ
để trực nhận được các bản tính Như Thực của vạn
pháp, và hành trì theo kiến giải đó. Trực nhận được bản tính của như
huyễn của vạn pháp thì được như huyễn nhẫn, trực nhận được
bản tính vô sinh của vạn pháp thì được Vô sinh pháp
nhẫn, trực nhận được bản tính như hưởngcủa vạn pháp thì
được như hưởng nhẫn v..v…. Nhẫn đây là tuệ. Chứng được bản
tính của vạn pháp là vô sinh, là “như huyễn, như
diệm, như mộng, như hưởng, như ảnh”… mà không kinh hãi, đó là dũng trong
nhẫn.
Chính vì nhẫn là tuệ,
cho nên đức Phật mới dạy : “Chư Phật-tử! Ðại Bồ-Tát có mười thứ nhẫn, nếu
được nhẫn nầy thời được đến nơi vô-ngại nhẫn-địa của tất cả Bồ-tát, tất cả
Phật-pháp vô-ngại vô-tận.“(2)
Từ lời dạy này, Phật tử
chúng ta có thể sẽ đạt đến một tầm nhìn khác rộng hơn, khi hành trì nhẫn nhục.
Chú thích :
(2) Kinh Hoa Nghiêm,
phẩm Thập nhẫn, H.T Thích Trí Tịnh dịch.
(3) Suzuki, Studies in
the Lankavatra Sutra, NXB Routledge & Kegan Paul Ltd., London, 1968. tr.125
Huỳnh Ngọc
Chiến